Tôi thầm nghĩ, trung đoàn trưởng Phong không vào mộ cổ Địa Tiên mà náu mình trong huyệt mộ quan tài treo, cái quách đá khắc hình núi sông kia hình như cũng do ông ta đào được. Nhưng sao ông ta lại chết một cách bất minh bất bạch như vậy? Mấy mảnh vỏ bao thuốc lá nhàu nhĩ này chắc là di ngôn của ông ta để lại trước lúc lâm chung, tôi chỉ muốn xem cho thât kỹ, nhưng rồi nghĩ lại, cảm thấy nên để người bạn chung hoạn nạn với trung đoàn trưởng Phong thuở sinh tiền là giáo sư Tôn đoc trước thì hơn, bèn đưa vỏ bao thuốc lá cho lão ta: “Ông xem trung đoàn trưởng Phong có để lại di ngôn gì không?”
Cả bọn ngồi quây lại bên cạnh cái quách đá, giáo sư Tôn mượn ánh sáng từ ngọn đèn pin mắt sói, run run đọc từng chữ từng chữ viết trên vỏ bao thuốc lá, cả con khỉ kia cũng ngói chồm hỗm trên nắp quách, im lặng lắng nghe.
Mặc dù nội dung di thư trung đoàn trưởng Phong dùng bút chì viết lên vỏ bao thuốc lá khá dài, nhưng ngôn từ tương đối súc tích, thỉnh thoảng còn có chỗ biểu đạt không rõ hoặc nét chữ mờ nhạt, nên chúng tôi chỉ có thể hiểu được đại khái.
Trong di thư của trung đoàn trưởng Phong có nhắc sơ qua đến thân thế của ông ta. Khu vực hẻm núi Quan Tài này là đất bồi táng nằm trong khu lăng mộ của Di Sơn Vu Lăng vương. Từ thời Tống Nguyên, tổ tiên nhà họ Phong đã bắt đầu làm nghề trộm mộ, họ đào được rất nhiều thư tịch cổ khắc trên thẻ tre và mai rùa ở quần thế quan tài treo bên dưới hang ổ của lũ chim yến trong hẻm núi Quan Tài. Vì những người được táng trong quan tài treo ở đây thảy đều là các bậc kỳ nhân dị sĩ từng trị nạn lũ lụt năm xưa, ai nấy đều thông hiểu các thuật tướng tinh âm dương, lại càng tinh thông biến hóa kỳ môn độn giáp, nên các thư tịch cổ tùy táng đa phần đều ghi chép đủ loại phương thuật cổ thần bí ly kỳ. Chính nhờ những thứ này, nhà họ Phong mới trở nên giàu sang.
Trong hẻm núi Quan Tài có một ngọn núi Quan Tài, đấy chính là lăng mộ của Di Sơn Vu Lăng vương. Nhà họ Phong ăm xưa nhờ trộm mộ kiếm được bí thuật phong thủy mà phát tài liền tự xưng mình là “Quan Sơn thái bảo(13)”. Thời Hồng Vũ, họ Phong từng có một độ dốc sức cho hoàng gia, liền cải xứng thành “Quan Sơn thái bảo(14)”, được ngự ban mười tám miếng Quan Sơn bài, đồng thời để lại sự tích trứ danh “Quan Sơn trộm cốt, thái bảo xem nhà”.
Đến cuối thời Minh, thủ lĩnh Quan Sơn thái bảo hình như phát hiện được thiên hạ sắp đến hồi đại biến, bèn đưa cả gia tộc lui về cố hương, khai thác mạch khoáng muối Vu mà sinh sống. Nhờ gia tư giàu có, nhà họ Phong liền trở thành một hào tộc ở địa phương.
Thủ lĩnh Quan Sơn thái bảo bấy giờ là Phong Soái Cổ, trong đầu lúc nào cũng chăm chăm nghĩ đến chuyện trộm mộ, lại càng đắm đuối với thuyết bất tử của những kẻ luyện đơn, nên đã làm trái lời cổ huấn của tổ tiên, dẫn người đi đào núi Quan Tài. Ông ta lấy được quẻ phù long cốt bên trong mộ, tự xưng mình đã tham ngộ huyền cơ, bỏ đi tên họ trước đây, nói rằng bản thân đã thoát luyện thành địa tiên trường sinh bất tử. Sau đó, Phong Soái Cổ dốc hết tâm huyết xây dựng một thôn Địa Tiên để độ hóa người phàm, những kẻ tin theo nhiều vô số kể, rất nhiều người đã theo ông ta vào trong mộ cổ ẩn cư lánh đời, từ đó mai danh ẩn tích, không còn ai thấy có người sống ra khỏi mộ cổ Địa Tiên nữa.
Khi đó trong nhà họ Phong cũng có một số người cho rằng Phong Soái Cổ bị điên. Tổ tiên đã để lại huấn thị, cấm con cháu không được đào mộ Di Sơn Vu Lăng vương, vì trong ngôi mộ cổ ấy có chôn giấu một con quái vật. Phong Soái Cổ lại không tuân thủ điều cấm kỵ này, sau khi đào ngôi mộ ấy thì người hoàn toàn biến đổi, chắc hẳn đã bị âm hồn của Di Sơn V Lăng vương ám. Ông ta chẳng những giấu hết bao nhiêu minh khí, quan quách, đơn đỉnh, vàng bạc châu báu đào được ở khắp nơi suốt mấy chục năm vào trong mộ cổ, lại còn yêu ngôn hoặc chúng, muốn lôi kéo thêm thật nhiều người sống cùng vào bồi táng với mình.
Nhưng những người phản đối Phong Soái Cổ này đều chẳng có địa vị gì trong nhà họ Phong, Phong Soái Cổ cũng không ép bọn họ, chỉ nói thế giới bên ngoài sắp máu chảy thành sông tới nơi, lánh vào thôn Địa Tiên, sau khi chết sẽ thành tiên, đắc thành đại đạo trường sinh bất lão, “thọ cùng nhật nguyệt, sống ngang trời đất”. Đây là phép độ thi của hạ tiên, các người không chịu theo mà cứ chấp mê bất ngộ, ta cũng không làm gì được, nhưng con cháu đời sau của các người nếu có kiếp nạn thì cứ theo Quan Sơn thái bảo mà vào mộ cổ tìm Địa Tiên, niệm tình đồng tông đồng tộc, ta vẫn sẽ độ hóa cho chúng.
Sau đấy, bọn giặc cỏ vào Xuyên, quả nhiên giết người nhiều vô số kể, nhưng đại quân cũng không đánh được tới vùng Xuyên Đông. Có điều, vào giai đoạn cuối Minh đầu Thanh ấy, thổ phỉ, loạn binh đông như kiến, khu vực Thanh Khê khó tránh khỏi bị ảnh hưởng. Bọn thổ phỉ từng vào núi đào bới báu vật trong mộ cổ Địa Tiên, nhưng không kẻ nào đạt được ý định. Người nhà họ Phong không chết hết trong giai đoạn chiến loạn, song phải ly hương chạy đến Hồ Bắc ẩn cư, thỉnh thoảng gặp khi quẫn bách lại đi trộm mộ mưu sinh, “Quan Sơn chỉ mê phú” và các ngón nghề đổ đấu nhờ thế mà không bị thất truyền. Nhưng đến đời trung đoàn trưởng Phong, gia tộc chỉ còn lại một mình ông ta ngay cả bản lĩnh của tổ tiên ông ta cũng không học được, chẳng có nghề ngỗng gì, đành lăn lộn giữa đám lục lâm thảo khấu, ngược lại cũng khá tiêu dao tự tại. Đúng dịp kháng chiến chổng Nhật bùng nổ, quốc gia phải đối mặt với nạn lớn, ông ta liền dẫn theo mấy người anh em nhập ngũ.
Ông ta nửa đời binh nghiệp, trải qua mấy trăm trận chiến lớn nhỏ, từ trước giải phóng đã làm đến trung đoàn trưởng, chiến tranh kháng Mỹ viện Triều kết thúc vẫn giữ chức ấy, kể ra thì trong nửa cuộc đời cũng lập được chiến công không nhỏ, giành được khá nhiều vinh dự. Trung đoàn do ông ta dẫn dắt cũng là một trong những trung đoàn át chủ bài của quân đội, thời chiến dịch Liêu Ninh từng được phong danh hiệu “Trung đoàn anh hùng vững như Thái Sơn nghìn pháo vạn pháo cũng không suy chuyển”, thời kháng Mỹ viện Triều thì là “Trung đoàn Thường Sơn Triệu Tử Long thâm nhập địch hậu xuất kỳ binh”…
Nhưng trung đoàn trưởng Phong mặc dù đánh trận liều mạng, hơn nữa còn nhiều lần lập được kỳ công, nhưng bản thân ông ta lại quá nhiều tật xấu, uống rượu chơi gái như cơm bữa. Ông ta cũng rất ham chơi, săn bắn, cưỡi ngựa, khiêu vũ, đánh bạc, đấu chó, nuôi khỉ… không thứ nào là không thích, mà chơi thứ nào cũng đều là bậc cao thủ. Thêm nữa, người này xuất thân lục lâm, nên gặp ai ũng nói chuyện nghĩa khí, đã rất nhiều lần bị xử phạt nặng, thậm chí mấy bận còn suýt bị xử theo quân pháp. Trong thời chiến, chỉ cần giỏi đánh trận thì việc gì cũng dễ giải quyết, có điều đến thời bình, quân đội cũng không chứa chấp ông ta được nữa, đành phải thuyên chuyển đến công tác ở địa phương.
Trung đoàn trưởng Phong rời quân đội về địa phương, những thói hư tật xấu lại càng thể hiện rõ rệt hơn. Khuyết điểm lớn nhất của ông ta chính là mê tín, xưa nay ông ta xông pha mũi tên hòn đạn vào sinh ra tử chẳng chút ngại ngần chém đầu cũng chỉ coi như gió thổi bay mũ, nhưng cứ hễ nhắc đến hỏa táng là sợ run lên, hơn nữa còn hết sức tin tưởng vào bài “Quan Sơn chỉ mê phú” của tổ tiên truyền lại. Vìvậy, trong một loạt các cuộc vận động sau này, trung đoàn trưởng Phong trở thành đích ngắm của tất cả mọi người, cũng may có thủ trưởng cũ trong quân đội che chở, nên ông ta chỉ bị đày đến nông trường ở vùng sâu vùng xa cải tạo lao động, tuy rằng có khổ cực một chút, nhưng núi cao hoàng đế xa, phong trào gì cũng không thể lan đến được Quả Viên Câu ở tít tận trong núi.
Nhưng trung đoàn trưởng Phong vỗn tự do quen thói, chỉ quen ra lệnh cho người khác, xưa nay có bao giờ để ai vào trong mắt. Ông ta cảm thấy mình không thể chịu nổi công việc khai thác đá khổ nhọc, mới đầu đã nghĩ đến chuyện tự sát, nhưng rồi lại thấy chết như vậy thì hơi hèn nhát, bèn quyết định bỏ trốn… trốn về quê cũ vào trong mộ cổ tìm Địa Tiên.
Trong di thư, trung đoàn trưởng Phong có nhắc đến, cả đời này ông ta tự vấn lương tâm thấy không có gì phải hối hận, duy nhất chỉ có lỗi với một người, chính là Tôn Diệu Tổ năm xưa cùng làm việc với ông ta ở nông trường… lão Tôn.
Trung đoàn trưởng Phong vốn muốn rủ cả lão Tôn cùng trốn đi với mình, nhưng vừa thấy đối phương có chút do dự, liền dằn lòng đập cho người này một cú ngất xỉu. Kỳ thực, ông ta làm vậy là để đối phương khỏi bị liên lụy, có điều, họ Phong tự thấy mình là kẻ thô lỗ, ra tay không biết nặng nhẹ, đập một cú như thế không biết phần tử trí thức như lão Tôn có chịu được không. Còn nhớ thuở trước ông ta đánh nhau với quân Nhật, từng dùng sức mạnh y như vậy, không chừng đối phương đã chết ngay tại trận rồi cũng nên, nhưng lúc đó tình hình khẩn cấp ống ta không kịp kiểm tra xem giáo sư Tôn bị đánh ngất hay đánh chết thì đã phải vội vã rời khỏi hiện trường.
Trên đường đào tẩu, trong lòng ông ta vẫn cứ thấp thòm bất an, lo lắng không biết lão Tôn có phải đã bị mình lỡ tay đánh chết rồi hay không? Nhưng đã chạy thoát ra ngoài thì không thể quay lại xem được nữa. Suốt cả chặng đường, ông ta chỉ chọn những nơi rừng sâu núi hiểm không dấu chân người mà đi, đến nơi có trấn có huyện, thì sai con khỉ Ba Sơn đã theo ông ta nhiều năm đi trộm đồ ăn thức uống về, còn bản thân ông ta thì ẩn nấp trong chốn thâm sơn, vì vậy mà không bị ai phát hiện ra tung tích.
Cuối cùng, trung đoàn trưởng Phong cũng vượt qua được dãy Đại Ba sơn, trở về quê cũ ở trấn Thanh Khê. Lúc đi qua đường hầm, ngẫu nhiên gặp phải chỗ sụt lở bị thương ở đầu, ông ta nhịn đau mang vết thương đến hẻm núi Quan Tài, rồi dựa theo bài “Quan Sơn chỉ mê phú” của tổ tiên truyền lại tìm được huyệt mộ quan tài treo cất giấu chìa khóa của lối vào mộ cổ Địa Tiên.