Tôi và Shirley Dương ngơ ngác nhìn nhau, không ai biết cái thứ bên trong tầng kép ấy rốt cuộc là gì? Dưới ánh sáng của mấy cái đèn pin, trong đóa hoa đá biển ấy bỗng nhiên có bóng đen nhích động. Bốn chúng tôi đều giật mình lùi lại một bước, chỉ thấy có một cái bóng hình người dường như đang khe khẽ đung đưa trong hình ảnh phản chiếu dưới nước của đóa hoa đá biển kỳ dị, phảng phất như muốn nhao ra bên ngoài.
Tôi thầm nhủ: “Tàu Chĩa Ba được mấy người Anh thu mua cải tạo, Nguyễn Hắc ở trên tàu phụ giúp, Cổ Thái đã theo ông ta nhiều năm như vậy, có lẽ cũng biết cái thứ trông như một đóa hoa đá biển này rốt cuộc là gì.” Nhưng đưa mắt nhìn sang phía Cổ Thái, rõ ràng cậu ta cũng không biết gì, nét mặt còn hết sức kinh hoảng. Phỏng chừng, cậu ta ngỡ rằng trong đóa hoa đá biển kia có ma, run run chỉ tay vào trong tầng kép, lắp bắp nói với tôi: “Ma… ma kìa…”
Tôi vội đưa tay lên bịt miệng cậu ta lại, sư cha nhà cậu, đừng có nói nhảm, chẳng lẽ cậu không biết trên đời này có một số thứ không nên nhắc đến hay sao? Cậu cứ nhắc nhiều, thì dẫu không có ma quỷ, sớm muộn gì chúng nó cũng hiện về cho mà xem. Quy củ lề lối của cái nghề hàng hải này chỉ nhiều hơn chứ quyết chẳng thể ít hơn nghề trộm mộ chúng tôi, có lẽ đóa hoa đá biển giấu trong tầng kép cùng với lũ quái ngư biết đập đầu kia, là một loại khám thờ bí mật nào đó. Xưa nay, các thuyền trưởng cũng hay mang đủ thứ kỳ dị lên tàu, chỉ cần họ cho rằng thứ ấy may mắn thì đều lễ bái như đối với bài vị tổ tiên vậy. Có điều, tại sao lúc ở trên biển không thể nhắc đến, cũng không thể nhìn vào tầng kép này chứ? Cái chết của mấy nhà thám hiểm người Anh từng cải tạo lại con tàu này thực sự có liên quan đến thứ ở trong tầng kép kia sao?
Shirley Dương nói: “Chúng ta đều không rõ mấy thứ này rốt cuộc là gì, nhưng vừa nãy bộ xương hình như đã tóm chân Cổ Thái, giờ lại không thấy nhúc nhích gì nữa. Vả lại, cái bóng người mơ hồ trong đóa hoa đá biển kia cũng rất cổ quái, tôi thấy phàm chuyện gì cũng nên cẩn thận, giờ ta đã bỏ con tàu này rồi, tốt nhất đừng để ý đến thứ giấu bên trong tầng kép làm gì nữa, mau chóng rời đi thì hơn.”
Tôi nói với Shirley Dương: “Chúng ta lại nghĩ giống nhau rồi, tôi cũng cảm thấy đóa hoa đá biển này không ổn cho lắm. Nhưng đã làm thì làm cho trót, chi bằng chúng ta lên phía trên lấy ít thuốc nổ xuống đây, nổ cho nó banh xác pháo ra luôn, sau này đỡ phải nghĩ đến nó, đi đâu cũng thấy không yên tâm.” Nói đoạn, tôi liền kéo tay Cổ Thái, định dẫn cả bọn lên trên boong tàu, tập hợp với Minh Thúc và Đa Linh, rồi lấy thuốc nổ xuống cho nổ tung đóa hoa đá biển cổ quái trước mắt.
Nhưng chúng tôi chưa kịp xoay người đi lên, lũ quái ngư giống như đang đập đầu tụng kinh kia lại đột nhiên dừng phắt lại, miệng cá há ra rồi ngậm lại, phun ra những viên tròn tròn đen loáng. Mấy viên đó chỉ to bằng cái móng tay, viên nào viên nấy đen tuyền sáng bóng, chiếu đèn pin vào, lập tức ánh lên một quầng sáng kỳ dị. Tôi thầm kêu lên: “Màu đen ư!”
Minh châu Nam Hải giá trị bất phàm, đều do lũ trai ốc được âm tinh của mặt trăng cảm nhiễm, không ngừng tiết ra chất ngọc, mới có thể từ không hóa có, hoài thai ra kỳ trân ngưng tụ tinh hồn của biển cả. Trong các loại ngọc châu tích tụ tinh khí của nhật nguyệt ấy, cũng phân ra làm mấy loại, màu bạc, màu trắng, màu vàng nhạt và hồng phấn. Thượng phẩm của thượng phẩm, chính là loại dạ minh châu sáng hơn cả ánh trăng, khi tắt lửa tối đèn vẫn có thể chiếu xa trăm bước. Nhưng dạ minh châu đó vẫn còn thua loại hắc trân châu trân quý nhất đại dương một bậc. Chẳng ai ngờ, lũ quái ngư sống trong đóa hoa đá biển và bộ xương người này lại phun ra hắc trân châu, cả bốn chúng tôi bất giác đều dừng bước chân.
Có điều, đừng nói là mấy tên Mô Kim hiệu úy rất hiếm khi ra biển như tôi và Tuyền béo, đến cả đám dân mò ngọc chuyên nghiệp cũng chẳng có mấy người thực sự được may mắn trông thấy hắc trân châu bao giờ. Tôi chỉ từng nghe Minh Thúc nói, hắc trân châu được dân mò ngọc gọi là “Ô cù”, là loại dị bảo chỉ có thể gặp chứ không thể cầu. Nhưng tôi cũng lấy làm lạ, rất nhiều loài sinh vật trên thế gian này có nội đơn và kết thạch[47], chẳng hạn như ngưu hoàng, cẩu bảo, lạc thạch, tôi và Tuyền béo còn tận mắt chứng kiến trong cơ thể một con chồn lông vàng có nội đơn trông như cái bướu thịt màu đỏ. Những thứ ấy, đều hình thành khi các sinh vật ấy vô tình hay hữu ý hấp thu nhật nguyệt tinh hoa, có điều, tất cả đều không bằng minh châu do lũ trai, ốc dưới biển hấp thụ ánh trăng ngưng luyện mà thành. Những con cá sống lâu nơi biển lớn hồ to, cũng có thể vờn ngọc dưới trăng, có điều, thần vật như “Ô cù” thì không phải thứ bọn chúng ngưng kết được. Duy nhất chỉ có một loài trai cực kỳ đặc biệt có thể hóa ra được vật này. Song, nếu những viên đen tròn trước mắt chúng tôi không phải hắc trân châu “Ô cù”, vậy thì là thứ gì?
Tuyền béo nhìn chòng chọc mấy viên hắc trân châu dưới sàn, đưa tay lên dụi mạnh hai mắt, mừng quýnh: “Tư lệnh Nhất, tôi nhớ hồi xưa chúng ta nghèo khó, trông mong vớ được món bở phát tài to cứ như Bạch mao nữ[48] mong quân giải phóng ấy, gớm, cứ gọi là mòn cả con mắt. Giờ đám tiểu bảo bối này tự dâng đến tận miệng, đúng là số đã giàu thì thế nào cũng phất mà lại, còn khách khí gì nữa…” Cậu ta mồm nói tay thì tham lam thò ra nhặt “Ô cù”, nhặt được một viên là lại lẩm bẩm một câu: “Đây là du thuyền của ông ở Thái Bình Dương… đây là biệt thự ở Cali… cái này à… tiên sư cha bố… là cô em xinh đẹp của ông ở Mỹ…”
Nhìn bộ dạng tham tiền chảy rớt chảy dãi của Tuyền béo, tôi thoáng động tâm, như sực nghĩ ra điều gì đó. Trong khoảnh khắc ấy, hình ảnh Nguyễn Hắc lóe lên trong tâm trí. Dân mò ngọc bản tính vốn tham lam, có thể vì của cải tiền tài mà liều sống liều chết… có lẽ nói họ tham lam cũng không được thỏa đáng cho lắm, mà phải bảo là tuân theo một thứ tập tục hay quy tắc bất thành văn thì đúng hơn. Trong truyền thống của họ, phàm là gặp được long huyệt (tức con trai có ngọc), thì nhất định phải mò cho đến hết mới thôi, không bao giờ có quan niệm lưu lại chút gì, rặt một lũ thấy ngọc là mò đến chết. Nếu đã vậy, Nguyễn Hắc tại sao không lấy những viên “Ô cù” giấu trong tầng kép này ra? Trừ phi…
Đang nghĩ tới đây, trong đầu vẫn chưa tìm ra đầu mối thì Shirley Dương đã nhanh hơn tôi một bước, chỉ nghe cô kêu lên: “Tuyền béo, anh đừng nhặt nữa, thứ này sợ không phải là hắc trân châu đâu!” Nhưng Tuyền béo chẳng hề để ý, vẫn nhặt hết mấy viên đen đen còn lại lên.
Đột nhiên Cổ Thái chỉ tay vào tầng kép vừa bị bật tung ra: “Anh Nhất, có ma, tin tôi đi, có ma thật đấy…” Cậu ta nói tiếng Trung không được rõ ràng chuẩn xác như Nguyễn Hắc, vốn từ cũng ít ỏi, nhiều ý không biết diễn đạt ra sao, nên càng luống cuống hơn, tay chân khua loạn, một mực lắp bắp nói trong tầng kép có ma.
Tôi đang mải nhìn Tuyền béo, lo cậu ta cắm đầu cắm cổ nhặt hắc trân châu không khéo lại xảy ra chuyện, tiện mồm đáp: “Tôi tin cậu cái rắm ấy, chỉ nói lăng nhăng, ma quỷ cái gì? Dưới biển chỉ có cá không có ma. Tôi cũng chẳng nhớ lần cuối cùng gặp ma là khi nào nữa đây này. Nhắc đến mới nhớ, cũng lâu lắm tôi không ăn cơm với cá kho rồi…” Tuy đáp bừa như thế, nhưng do tác dụng của phản xạ thần kinh, tôi và Shirley Dương vẫn đưa mắt liếc về phía cánh tay cậu ta chỉ một cái. Cái bóng đen mơ hồ trong đóa hoa đá biển kia, không hiểu từ lúc nào đã hiện dần đường nét, nhìn rõ hơn chút, nhưng vẫn nhập nhòa tựa cái bóng soi dưới nước, không biết được là nam hay nữ, như thể một mảng nước đen, phiêu hốt chập chờn giữa đóa hoa đá biển và ván tàu, rồi đột nhiên chảy vào trong đống xương người chết. Hốc mắt của chiếc đầu lâu lập tức chảy nước, thoạt trông như có oan hồn than khóc, tuôn hai hàng nước mắt đen ngòm. Cả con tàu phút chốc cơ hồ đã bị bóng đen chết chóc bao trùm. Xem tình hình có vẻ rất bất lợi, dường như từ khi tầng kép bị phá tung, vận mệnh của chúng tôi đã được định đoạt. Chỉ trong chốc lát đây thôi, bốn người chúng tôi ắt sẽ phải giẫm lên vết xe đổ của toán người Anh, toàn đội không còn đường sống sót trở về.