Mà cũng lại trong gian mật thất kia, ôngtrẻ đã phát hiện ra cuốn sách lụa Chiến quốc. Ngay khi ông cầm lấy sáchlụa, định rời khỏi mật thất thì đột nhiên xảy ra một biến cố gì đó rấthãi hùng.
Lúc biến cố mới phát sinh, có lẽ ông vẫncòn có cơ ứng phó, vốn vẫn còn có thể thò tay ra khỏi mất thất được,nhưng chờ đến khi ông nghĩ ra được điều này thì đã quá muộn. Trong tìnhhuống bất đắc dĩ, có lẽ tự bản thân ông, hoặc là cụ cố tôi, đã nổ súngcắt phăng cánh tay ông trẻ.
Cánh tay đứt được ông nội ở bên ngoàidùng con chuột đất kéo ra khỏi cổ mộ, còn ông trẻ bị nhốt ở bên trongmật thất, cuối cùng biến thành một con quái vật vô cùng đáng sợ.
Cụ cố và kỵ tôi ở ngoài gian mật thất đãcố gắng hết sức để cứu ông trẻ ra, cuối cùng cũng bị liên lụy, chết ởbên cạnh quan tài.
Tuy nhiên, còn cái thứ đỏ như máu đuổitheo ra ngoài mộ thất lúc cuối cùng và cái xác khổng lồ với gương mặt to bè quái dị kia là gì? Trong này giải thích không rõ ràng cho lắm. Tôicảm thấy có khả năng cái thứ đỏ như máu kia chính là ông trẻ tuy gặp nạn nhưng vẫn còn sót lại chút ý thức, có điều, lúc bấy giờ ông nội tôikhông thể tưởng tượng nổi đến điều này, cho nên cứ tưởng ông trẻ là quái vật trong mộ cổ.
Đương nhiên, sự việc có chính xác là nhưvậy hay không thì chỉ có người trong cuộc mới biết. Chứ bây giờ cứ ngồiphỏng đoán, cho dù có giải thích được hợp lý đến mấy thì cũng vẫn chỉ là phỏng đoán mà thôi.
Tôi lựa lời mà nói suy nghĩ này của mình ra cho chú Ba nghe. Chú nhìn tôi với vẻ mặt phức tạp, rồi khẽ gật đầu.
Bấy giờ, tôi nghĩ đến một vấn đề, bèn hỏi: “Nhưng mà, ông nội đã từng nói ‘đây không phải chuyện con nít nên nghe’, chứng tỏ ông cũng biết lúc đó có thể mình đã nổ súng bắn chính anh trai mình. Đáng ra ông không thể biết được chuyện này mới đúng, như vậy, cókhi nào về sau ông nội đã từng trở lại ngôi một cổ đó một lần nữa rồichăng? Mà trong bút ký lại không thấy ghi những chuyện xảy ra tiếp theo, có phải chính là bởi vì sự thật quá khủng khiếp?”. Chú Ba nhíu mày đáp: “Chú mày cũng thắc mắc tương tự, nhưng điều này không thể nào kiểmchứng được nữa. Ông già chết rồi, chúng ta vĩnh viễn không bao giờ cóthể biết được năm ấy đã thật sự xảy ra chuyện gì.”
Tôi hỏi: “Vậy còn tiếp đó? Chú có xuốngmật thất dưới đáy quan tài không?” Chú Ba lại rít mạnh một hơi khói,cháy hết gần một phần năm điếu thuốc rồi hỏi lại: “Nếu mày là chú thì có chịu nhịn, không leo xuống được không?”
Tôi thầm cười khổ, tự nhủ nếu cháu mà làchú thì đã sợ chết ngắc ngay từ lúc mở cửa ngầm rồi, làm gì còn cơ hộinào để cân nhắc xem có nên xuống dưới hay không nữa. Tôi lắc đầu bảo:“Thôi thôi làm sao mà cháu so với ngài được ạ, lá gan của thằng cháungài ngài biết tỏng rồi còn giả bộ. Mà thôi chú đừng lấp la lấp lửngnữa, nói mau đi xem nào, rốt cuộc trong mật thất kia có cái gì thế?”
Chú Ba thở dài nói: “Chú cho mày xem thứnày trước đã, rồi hẵng từ từ kể cho mày nghe.” Nói xong, chú lôi ba lôcủa mình ra khỏi chiếc tủ cạnh giường bệnh, rồi lấy từ trong đó ra mộtcái hộp ngà voi nhỏ.
Tôi cầm lấy, nhìn thử thì thấy đó là cốtmột cái hộp tráng men triều Thanh, còn ở dạng bán thành phẩm, chưa tráng men màu lên trên, rất nặng. Tôi mở ra xem thì thấy trong hộp có mộtviên đá cuội màu đen xấu xí, trông cứ như loại đá cuội ta thường bắt gặp trong mấy đống cát ở các công trường xây dựng thời nay ấy.
“Đây là cái gì?” Tôi lấy làm kỳ lạ, bèn hỏi.
“Hòn đá đó là thứ chú lấy ra từ trong gian mật thất kia.” Chú Ba trả lời.
Tôi “a” lên một tiếng: “Chính là thứ nàysao?” rồi cẩn thận xem xét viên đá, nhưng nhìn mãi vẫn không thấy có gìkỳ lạ hết. Tôi vừa định nhón tay cầm lấy thử xem thì chú Ba đã đậy cáihộp lại. “Đừng động vào, thứ này nguy hiểm đấy.” Chú bảo.
Tôi trả lại cái hộp cho chú, nói vẻ khóhiểu: “Đây hình như chỉ là một hòn đá bình thường thôi mà, trong cái mật thất quỷ quái đó mà lại có cái này à?”
Chú Ba thở dài. Hình như người lên đếntầm tuổi của chú rất thích thở dài thì phải. Chú nói: “Mày đừng có khinh thường nó, lúc ấy chỉ vì lấy cái thứ này mà chú suýt nữa mất mạng đó.”
Sau khi đoán ra chân tướng của huyết thi, chú Ba sợ đến thất thần, ngồi đờ ra dưới đất một lúc rất lâu mới từ từhồi lại được, lòng dạ rối bời như mớ bòng bong. Nhìn cánh cửa vào mậtthất cách có hơn hai bước, chú tự hỏi trong bóng tối kia rốt cuộc có sức mạnh thần bí gì mà có thể biến một con người trở thành cái bộ dạng nhưthế.
Chú Ba cũng giống tôi, là kiểu người mệnh phạm Thái Cực, tuyệt đối chịu không nổi đòn tra tấn của sự tò mò. Chỉcó điều lá gan tôi quá nhỏ, thường xuyên chịu cả lòng hiếu kỳ lẫn sự sợhãi dằn vặt tra tấn, còn chú Ba thì không như thế. Chú chỉ hơi do dự một chút, rồi ngay lập tức quyết định xuống dưới mật thất xem xét để biếtcho thấu đáo mọi sự.
Giờ ngồi ngẫm lại mới thấy đây thực ra là một quyết định cực kỳ không sáng suốt, chắc cũng chỉ có người như chúBa mới có thể ra ra cái quyết định như trên trong tình cảnh này.
Ông nội tôi sở dĩ không chịu dạy cho chúBa quá nhiều bản lãnh, cũng là vì chú làm việc quá manh động. Sự thậtchứng minh ông tôi nhìn người hơi bị chuẩn, mỗi tội là trước những kinhnghiệm của bậc lão luyện, đám trẻ trâu lại thường bỏ ngoài tai.
Nghỉ ngơi một lát rồi chú Ba liền bắt tay vào chuẩn bị. Trước tiên chú thu nhặt lấy hài cốt của mấy vị tiền bối,cởi áo khoác, xé toang ra rồi gói hai bộ xương nằm bên cạnh quan tài vào chiếc áo. Sau đó chú đeo bao tay vào, dùng thừng trói xác luồn qua hainách của huyết thi, kéo ra khỏi quan tài, cung kính đặt ở một bên, rồiđem cái đầu lâu bị chặt cụt đặt trở lại. Chú quay về phía ba cỗ thi hài, dập đầu ba cái thật dứt khoát rồi khấn: “Thằng cháu bất tài Ngô TamTỉnh, đầu óc ngu dốt, đã mạo phạm di thể tổ tiên, xin các ngài thứ lỗi.”
Dập đầu xong, chú gài lại con dao quắmlên hông, lại lấy kíp nổ ra giắt vào đai lưng, nhìn tổng thể toàn thân,xác định tất cả không có sơ hở gì.
Chú tập trung tinh thần, đi đến chỗ quan tài, lại kéo cánh cửa ngầm lên một lần nữa, cẩn thận xem xét bên trong.
Đằng sau cánh cửa ngầm quả nhiên là mộtcon đường hầm dốc nghiêng xuống dưới. Có điều, không ngờ là trần đườnghầm này rất thấp, thấp đến độ gần như chỉ có thể nằm rạp xuống bò vào.
Cửa vào đường hầm kích cỡ chỉ bằng cỡ cái quan tài. Con “bánh tông máu” kia trước đây cũng nằm trong đường hầmnày. Cũng may dưới này không gian chật hẹp, con “bánh tông máu” kia dùtrời sinh rất khỏe cũng không thể vận dụng được hết sức mạnh, bằngkhông, chỉ với sức của chú Ba thì lấy cửa gì mà đòi chặn lại được nó?
Trước hết, chú Ba mở bật lửa ném vàotrong. Ánh lửa lăn lông lốc một đường, rơi thẳng vào sâu trong đườnghầm, cuối cùng dừng lại, trở thành một nguồn sáng nho nhỏ chiếu sáng một khoảng.
Tiếp đến, chú sờ sờ lên con dao quắm bênhông, nói một tiếng xin tổ tiên phù hộ rồi hít một hơi, cẩn thận từng ly từng tí nâng người lên, từ từ chui vào bên trong đường hầm.
Trong đường hầm tràn ngập một mùi tanhhôi khó mà dùng lời mà tả được. Chú Ba nhoài người nằm rạp xuống, khôngthể không nhịn thở, di chuyển vào bên trong. Đợi khi thân thể lọt vàotoàn bộ rồi, chân kéo cửa ngầm ở phía trên một cái, cửa ngầm tự đóng sập xuống.
Trong chốc lát bốn phía yên tĩnh khácthường, chỉ còn tiếng bật lửa cháy leo lét ở phía trước. Chú Ba có chútcăng thẳng không rõ nguyên nhân, mồ hôi hột chợt tứa ra ướt đẫm khắpthân người. Chú cố gắng trấn tĩnh lại một lát, lấy đèn pin bật lên chiếu sáng trước mặt.
Ánh đèn pin so với bật lửa thì mạnh hơnnhiều, trong chốc lát đã chiếu đi rất xa. Chú thấy đường hầm này donhững phiến đá màu đen xếp thành, đại khái cứ ba mét một phiến, từngphiến từng phiến liền kề nối tiếp nhau, thông thẳng một mạch vào sâu tít phía trong. Toàn bộ đường hầm sạch sẽ khác thường, những phiến đá đenbốn phía cũng được giữ cho cực kỳ trơn nhẵn, không trang trí bất cứ thứgì, thoáng nhìn trông giống đường ống thông gió của loại điều hòa trungương kiểu cũ.
Độ lớn và màu sắc của ngọn lửa phát ra từ chiếc bật lửa phía trước đều rất bình thường. Không khí trong đườngngầm chắc hẳn là có lưu thông với bên ngoài, nên việc hít thở khôngthành vấn đề.
Chú Ba lấy lại bình tĩnh, cắn đèn pin lên miệng, bắt đầu bò vào sâu trong đường hầm.
Tôi cùng từng có kinh nghiệm bò trongđường hầm chật hẹp, nên biết đó hoàn toàn không phải việc nhẹ nhàng. Tuy chú Ba khỏe hơn tôi rất nhiều nhưng mới bò lên vài bước đã thấy thở hổn hển, cộng thêm thỉnh thoảng còn phải đề phòng xung quanh nên bò lạicàng thêm vất vả.
Bò được chừng mười phút đồng hồ thì phíatrước có chỗ ngoặt, chú Ba bèn vòng qua. Chú cứ tưởng phía sau vẫn làđường ngầm tương tự, nhưng vừa ngoặt một cái, chú liền phát hiện trướcmắt hiện ra một bức tường đá đen có khắc phù điêu.
Mới đầu, chú Ba rất sững sờ, ngây ngẩn một lúc lâu mới ý thức được, hóa ra đã đến hết đường hầm rồi.
Thế này là thế nào? Chú choáng váng, vốntưởng rằng phía cuối của đường ngầm sẽ có một cánh cửa, sau đó có mộtgian mật thất nữa, mà tất cả mọi bí mật có lẽ sẽ đều nằm trong gian mậtthất đó.
Thế mà bây giờ lại chẳng có cái gì cả. Đường hầm chỉ hơi dài một chút, rồi có một bức tường đen lớn chặn kín lối đi.
Không lẽ nữa xưa khi ông trẻ vào trong đã động chạm phải cơ quan nào đó, khiến đường hầm bị bịt kín hay sao?
Chú Ba gõ lên tường đá, thấy hình nhưphía sau tường đều đặc kín, lại xem xét mối nối ở bốn phía, phát hiệntường đá đã được gắn chặt vào chỗ này. Nói cách khác, đây chẳng phải làcơ quan gì cả, mà đúng là cuối của đường hầm thật rồi. Năm đó ông trẻchui vào chắc cũng đã bò được tới đây.
Thế thì kỳ lạ quá. Nếu chỗ này là điểmcuối của đường hầm, vậy thì đây nhất định là chỗ ông trẻ trộm được cuốnsách lụa mang ra. Nhưng ở đây làm gì có cái gì đâu? Sách lụa chiến quốcnăm đó đã được đặt ở chỗ nào? Không lẽ lại quăng trên mặt đất à?
Chú Ba đánh một vòng, xem xét bốn phía phần cuối đường hầm, rồi quan sát kỹ bức tường đá chặn đường kia một lúc.
Đúng lúc ấy, bức phù điêu trên tường đá đã thu hút sự chú ý của chú.
Đó là một vị thần mặt người mình chim,thân chim tựa loài cú đêm, mà mặt người thì cực kỳ cổ quái. Thủ phápđiêu khắc vô cùng cường điệu, gương mặt lớn như cái chậu rửa chân, miệng há hốc, tóc mai bồng bềnh, nét mặt vô cảm, chẳng biết là nam hay nữ.
(Tôi nghe đến đó liền ‘a’ lên một tiếng.)
Chú Ba chú ý thấy trên miệng bức phù điêu có một chỗ hơi lõm vào, so sánh bằng hình ảnh một chút thì có thể thấyngày trước cuốn sách lụa có lẽ đã được cuộn lại, đặt trong miệng phùđiêu.
Có điều miệng của phù điêu lại đúc đặc. Nói cách khác, sau khi lấy cuốn sách lụa ra sẽ không có cơ quan nào được khởi động.
Chú ngẩng đầu nhìn xem các bộ phận kháctrên mặt phù điêu, mũi, tai, mắt, cuối cùng, ánh mắt chú dừng ở lại ởcon mắt của bức phù điêu, nhìn chòng chọc.
Phù điêu mặt người thân chim có bốn conmắt, còn chạm trổ đồng tử hình tròn, nhưng kỳ quái ở chỗ đồng tử của hai con mắt bên trên lồi lên, còn đồng tử của hai con mắt phía dưới lại lõm vào. Có thể nói, đây chính là hai phương pháp chạm khắc phù điêu, làkhắc âm và khắc dương.
Chú Ba xưa nay chưa bao giờ gặp phảichuyện như thế này. Không chỉ là chú mà ngay cả tôi cũng biết điều nàytuyệt đối là không thể xảy ra được. Tất cả các loại phù điêu nếu khôngkhắc kiểu dương hết thì là khắc kiểu âm hết, không thể sử dụng lộn xộnxen lẫn ở cùng một nơi.
Chú Ba tiến đến ghé sát vào nhìn, khôngkhỏi “a” lên một tiếng. Chú phát hiện, hóa ra hai đôi đồng tử kia khônghề chạm khắc gắn liền thành chỉnh thể với bức phù điêu, mà chỉ là ở vịtrí mỗi con mắt đều có một viên đá cuội xấu xí màu đen được khảm vàotrong hốc mắt. Điều kỳ quặc chính là, hai viên đá của hai con mắt phíatrên vẫn còn, nhưng hai viên đá của hai con mắt phía dưới đã bị người ta cạy ra, chỉ còn lại hai hốc mắt hình cầu.
Chú Ba ngắm nghía hai con mắt kia, cảmthấy mọi thứ bắt đầu dần dần sáng tỏ, một phỏng đoán cực kỳ táo bạo xuất hiện trong đầu chú.