Bốn, năm tiếng sau, tất cả mọi người đều chui xuống đường giếng ở tầng dưới, chỉnh lý trang bị, tìm hai người khiêng Bàn Tử, rồi chúng tôi bắt đầu đi theo ký hiệu của Muộn Du Bình, đi sâu vào trong đường giếng.
Chú Ba đưa cho tôi một khẩu súng ngắn hai nòng, đây là loại súng ngày xưa tôi chơi bắn đĩa, kích cỡ như nhau nhưng nhẹ hơn một chút, mỗi lần bắn được hai phát đạn, dùng đạn hoa cải bằng chì. Đây đã là loại vũ khí hạng sang nhất mà chú Ba kiếm được rồi, hồi ở Thất tinh Lỗ vương cung cũng dùng loại này, hồi đó là tôi mua ở chợ đen, một khẩu hình như khoảng hơn năm ngàn tệ.
Loại súng này chỉ có thể gây trở ngại hoặc tạo uy hiếp với động vật cỡ lớn thôi, nhưng xử lý lũ rắn mào gà này thì khá tiện, một phát súng là quét bay được cả đám rồi. Tôi thầm nghĩ sao Phan Tử không mang theo một khẩu này nhỉ, còn dùng cái loại súng trường cổ lỗ sĩ kia, đúng là lạc hậu.
Nghĩ đến Phan Tử, tôi lại lo lắng, không biết giờ anh ấy ra sao rồi, ở trong đền thần đó an toàn hơn ở đây nhiều, nhưng nếu anh ấy lại lên cơn sốt thì chỉ sợ lành ít dữ nhiều. Nếu có anh ấy ở đây thì chắc chú Ba cũng không sốt ruột đến vậy.
Tôi nhắc nhở chú Ba về nội dung những bức phù điêu từng nhìn thấy lúc trước. Những đường hầm này ngoài dùng để chứa nước ra thì còn dùng để nuôi rắn mào gà nữa, suốt chặng đường tôi đi trong rừng mưa không gặp phải quá nhiều rắn mào gà, chỉ thấy chúng tập trung đi thành đàn đôi ba bận, hiển nhiên địa bàn của lũ rắn này là ở trong mấy đường hầm này rồi, chúng ta phải cẩn thận gấp bội mới được.
Chú Ba nói, lũ rắn độc này khó đề phòng lắm, có cẩn thận gấp đôi cũng chẳng ích gì.
Đoạn đường hầm lúc cao lúc thấp, tình cảnh ở đây làm tôi nhớ đến hồi ở trong Lỗ vương cung, lẽ nào cái đường hầm Tây Chu hồi đó chúng tôi gặp phải lại không phải đường hầm như chúng tôi từng nghĩ, mà là đường thoát nước thì sao nhỉ?
Không có cách nào chứng minh suy đoán này được, bởi vì ở bên Sơn Đông kia lượng mưa rất nhiều, không cần phải sử dụng đến hệ thống ngầm chứa nước phức tạp đến vậy. Bằng không, lỡ đến mùa mưa, mưa sụt sùi mấy tháng liền, nước tích trữ dưới đất sẽ dâng lên ngập hết, có lẽ đây chỉ đơn giản là vô tình giống nhau mà thôi.
Đi chưa được năm trăm bước, trong đường giếng lại xuất hiện mấy ngã rẽ khác, chú Ba dùng đèn mỏ chiếu sáng, một đường hướng lên trên, một đường hướng xuống dưới. Đường hướng lên trên chắc là đi lên đường giếng trên thượng du rồi, nước từ trên đó đổ xuống đây, sau đó tụ lại, rồi lại chảy xuống ngã rẽ hướng xuống dưới kia. Chúng tôi sục sạo khắp xung quanh, ngay lập tức nhìn thấy ký hiệu của Muộn Du Bình ở con đường hướng xuống dưới.
Chú Ba không giấu được vẻ hưng phấn, nhưng bây giờ tôi lại nhìn thấy vẻ hưng phấn của chú có hơi giả giả, tôi cũng không thể không giả vờ căng thẳng. Chú không chút do dự, phất tay ra hiệu đi tiếp.
Bước đi trong cái đường giếng này thực sự rất chán, khắp bốn phía toàn là gạch đá, không có bất kỳ phù điêu hay nét chữ gì cả, chỉ toàn là đá thô sơ, dưới tia sáng chiếu qua chiếu lại của đèn mỏ, vách tường vẫn không có một chút thay đổi gì.
Đoạn đường đầu tiên đi được khoảng ba giờ, gặp hết ngã rẽ này đến ngã rẽ khác, lại thấy hết ký hiệu này đến ký hiệu khác của Muộn Du Bình. Cả chặng đường hết sức nhàm chán, không cần miêu tả rườm rà thêm làm gì. Trên đường gặp phải rất nhiều ao chứa nước, điều duy nhất làm tôi cảm thấy hứng thú chính là, tôi nhận ra chúng tôi càng đi xuống thấp hơn thì những hồ chứa nước đó ngày càng rộng lớn hơn, hơn nữa, khắp xung quanh không có bất kỳ tiếng động nào, hình như ở đây cũng không hề có rắn.
Điều này ít nhiều cũng khiến chúng tôi ngạc nhiên, hoặc cũng có thể nói là do may mắn thôi. Có điều, tôi vẫn cứ cảm thấy không ổn lắm, cứ như thể đằng sau sự yên tĩnh này còn ẩn chứa một hiểm họa gì đó.
Nói ngắn gọn, đi mãi cho đến khi tối mịt vẫn bình an vô sự, dây thần kinh căng thẳng của chúng tôi rốt cục cũng thả lỏng ra một chút. Cùng hôm đó, chúng tôi xếp thành một hàng trong đường giếng ngồi nghỉ ngơi, đốt mấy đống lửa, đến giờ cơm, Bàn Tử mới tỉnh lại.
Chú Ba tiêm cho anh ta một mũi cầm cự, rồi cho anh ta ăn chút thức ăn. Tôi liền hỏi anh ta rốt cuộc đã gặp phải chuyện gì thế, nhưng anh ta vẫn chưa lại sức, chỉ lẩm bẩm được vài câu lại thiếp đi.
Nhưng thế cũng đủ để tôi an lòng hơn, anh ta trúng độc rắn cũng không phải nặng lắm, nếu đã tỉnh lại được chứng tỏ anh ta cũng không còn gì đáng ngại nữa. Quả nhiên đến sáng hôm sau, anh ta tỉnh lại thật, sắc mặt đã hồi phục hơn, tuy vẫn không thể đi lại, nhưng được người khác dìu lên. Anh ta nhìn khắp xung quanh, rồi yếu ớt hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra thế.
Tôi bảo, lần này anh phải cám ơn tôi đấy nhé, hiếm lắm mới được một lần ông đây không mặc xác anh mà co giò bỏ chạy, suýt chút nữa thì bị giày vò đến chết mới cứu nổi anh đấy. Lần này sống lại, anh tính lấy gì báo đáp đây?
Bàn Tử quay qua quay lại hỏi xin thuốc hút, mặt mũi héo hon, nói: “Mẹ, Bàn gia ta đây cứu chú mày bao nhiêu lần, chú mày mới cứu anh được có một lần đã đòi lên mặt. Bữa nay coi như anh em mình huề nhau, không tính toán nhé.” Sau đó anh ta hỏi tôi đây là đâu.
Tôi kể lại sơ lược tình hình, anh ta nghe xong cũng không tỏ thái độ gì. Tôi bèn hỏi anh ta, rốt cuộc anh ta với Muộn Du Bình làm sao thế?
Anh ta bảo, bọn họ cứ chạy đuổi theo mãi, rồi bị tách nhau ra, tốc độc của Tiểu Ca là thế nào chứ, anh ta bám theo thế nào được, thế xong rồi lại bất chợt nghe thấy tiếng rắn, suy nghĩ của anh ta giống tôi, cứ tưởng là người của lão chú Ba còn sống. Nhưng anh ta không có ngố tàu như tôi, anh ta len lén mò qua, kết quả vừa vén bụi cỏ lên thì đã bị rắn cắn.
Sau đó, cũng không khác suy đoán của tôi là bao, anh ta nói, Tiểu Ca kia chỉ e cũng trúng chiêu rồi, ôi mẹ ôi rắn này quá xá là tà môn. Thượng Đế phù hộ cho Tiểu Ca lanh trí hơn tụi mình.
Chú Ba thấy Bàn Tử hẵng còn vui vẻ lắm, bèn đưa thuốc cho anh ta. Tôi nghĩ có lẽ là vì Bàn Tử cũng coi như là người nhà đi. Có điều, Bàn Tử nhìn thấy chú Ba liền phiền muộn hết sức, nói: “Ông Ba, ông xem cái đũa gắp Lạt Ma nhà ông đi, bao giờ về ông phải trả thêm tiền cho tôi đấy, bằng không tôi không làm nữa đâu.”
Nói xong, mấy người khác cũng phụ họa theo, cười đùa một hồi, nhìn trông thì có vẻ bầu không khí rất hài hòa, không có chút vấn đề gì, dường như không ai chú ý đến nụ cười đắng chát của chú Ba.
Bàn Tử hồi phục rất nhanh. Tôi cho anh ta uống nhiều nước, lần đầu tiên anh ta đái ra toàn là nước đen sì, dần dần, nước tiểu bắt đầu trong lên. Thể chất của anh ta đúng là quá siêu, sắc mặt ngày càng hồng hào. Đến khi chúng tôi bắt đầu lên đường thì anh ta cơ bản đã có thể đứng lên, tự mình hành động rồi.
Tôi dìu anh ta dậy, tiếp tục xuất phát, vẫn giống như hôm qua, đi sâu vào bên trong từng chút một, qua hết hồ chứa này đến hồ chứa nọ. Chúng tôi phát hiện ra, hệ thống trữ nước này có hình dạng giống như cái túi lưới, càng đi xuống kết cấu càng đơn giản, nhưng đường giếng và thể tích hồ chứa càng ngày càng lớn.
Cuối cùng, chúng tôi dừng lại ở cái hồ chứa thứ sáu. Lúc này, hồ chứa đã rộng đến mức không nhìn thấy rõ hình dáng nước, ở giữa hồ dựng một cây cột đá to cỡ ba người ôm để phòng trần sập. Cả cái hồ đã cạn nước, kích cỡ ước chừng khoảng nửa cái sân vận động vậy.
Bàn Tử đã không cần tôi dìu nữa, nhưng thể lực anh ta vẫn chưa hồi phục hoàn toàn, đến đây bèn ngồi phích xuống thở, toàn thân đổ mồ hôi.
Chúng tôi phải dừng lại không phải là để nghỉ ngơi, so với lúc hành quân trong rừng rậm thì đi trong đường giếng này đã là nhẹ nhàng thoảng mái cứ như bước đi trên bờ cát giữa trời trong nắng ấm gió hiu hiu rồi, không mệt mỏi chút gì. Hơn nữa, khi vừa đến hồ chứa này, chúng tôi phát hiện trong đó mọc đầy những rễ cây khô, gần như bao trùm toàn bộ đáy hồ chứa, đầu đường giếng bị những rễ cây này phủ kín hết, bên trên lại mọc đầy những loài nấm hình thù quái dị, không có đường để đi tiếp.
Tôi rất lấy làm lạ, bây giờ chúng tôi đã xuống sâu dưới lòng đất lắm rồi, vì sau những rễ cây này vẫn mọc được xuống tận đây, trên thế giới có cái cây nào có bộ rễ dài đến thế này sao?
Gã “Đà Bả” kia xem xét đường đi, nói, những thứ này không phải là rễ cây, mà là một dạng khuẩn nấm. Xem ra hồ chứa nước này là môi trường tốt để lũ nấm hương sinh sôi nảy nở đây. Nói đoạn, gã sai người phạt bớt lũ khuẩn nấm này, tìm ký hiệu của Muộn Du Bình.
Tôi tiến lại gần xem xét, nhận ra những khuẩn nấm này trông rất giống rễ cây, nhưng mềm hơn nhiều, bên trên lại mọc đầy lông đen, mọc sát vách đường giếng, xem ra rất khó nuốt.
Tìm kiếm một hồi, chợt có người giật mình kêu lên rồi ngã phịch xuống đất. Chúng tôi lập tức giương súng chĩa về phía anh ta, lập tức nhìn thấy đằng sau lũ khuẩn nấm anh ta vừa chém đứt xuất hiện một khuôn mặt người chạm khắc từ đá.
Tôi vừa nhìn liền biết đó là thứ gì, lập tức cười phá lên, trả thù lúc trước bọn họ dám cười tôi khi tôi bị người giả dọa chết khiếp. Bọn họ ù ù cạc cạc nhìn tôi, tôi bèn nhặt đá vụn trên mặt đất lên rồi ném qua. Lập tức lũ thiêu thân xếp hình mặt người bay vèo đi mất.
Người kia vừa nhìn thấy, liền thở phào một cái, tất cả mọi người cười ầm lên.
Có lẽ lũ thiêu thân này ngẫu nhiên bay vào trong đường giếng này, có thể ở đây cũng có da rắn lột đã dụ chúng bay tới. Tôi nói với bọn họ, phải cẩn thận một chút, quanh đây có thể có rắn. Sau đó tôi đi đến chỗ đám thiêu thân tụ tập thành mặt người lúc này tìm kiếm một lúc, quả nhiên ở chỗ “rễ cây” xoắn xuýt dày đặc có một tảng gì màu trắng to tướng. Nhưng điều làm tôi bất ngờ lại, cái đống da rắn lột trắng ởn này không phải từ rất nhiều tấm da rắn gộp lại, mà là chỉnh thể một tấm luôn.
Tôi dùng súng hẩy tấm da lên, phát hiện ra đó phải là một con mãng xà to tướng cỡ bằng cái thùng phuy, thậm chí có thể thấy trên lớp da lột có những hai lớp vảy.
Chú Ba đến sờ một cái, tay dính đầy chất nhầy, mặt chú liền trắng bệch ra, kêu lên: “Mẹ kiếp tất cả súng lên đạn hết cho ông, cái của nợ này là mới lột, da rắn vừa lột thôi!” Rồi giục gã tìm đường mau nhanh nhanh chút, nơi này không thể ở lại lâu.
Tôi cũng lập tức đi tới giúp đỡ, dùng dao phạt bớt lũ khuẩn nấm, sau khi gạt hết khuẩn nấm ra, bèn dùng đèn mỏ chiếu xem đầu đường giếng. Dựa vào kinh nghiệm của chúng tôi, ký hiệu của Muộn Du Bình sẽ ở ngay gần đó thôi.
Nhưng vội vã suốt nửa ngày trời mà chẳng tìm thấy cái gì, mọi người bắt đầu nôn nóng, đã gần như là tìm hết khắp đường giếng thấp lè tè này rồi, chỉ còn lại phần trên đỉnh hồ chứa là chưa kiểm tra thôi. Tôi nghĩ thầm, hay chả nhẽ lối đi lại là ở trên đó, nhưng không có đường dốc nối lên trên, vách tường gần như thẳng đứng, phải vịn tường giếng mà leo lên thôi.
Trong nhóm có một anh chàng vóc người gầy tong teo, thân thủ khá nhất, anh ta không thoái thác đi đâu được, bèn trèo lên trên. Chúng tôi lấy đèn pin soi sáng cho anh ta, nhìn anh ta một tay vịn vào kẽ nứt trên tường đá, một tay dùng dao chém bớt lũ khuẩn nấm, sau đó lại vịn vào khe nứt, cong người trèo lên trên như một vận động viên leo núi.
Tôi nghĩ thầm, bảo tôi bắt chước anh ta mà làm tôi cũng không làm nổi, nhỡ tí nữa lại tìm được đường, tôi biết đi thế nào đây.
Anh ta dò xét mấy cái cửa giếng phía trên một hồi lâu, rồi kêu lên “Ở đây này”. Cả bọn thở phào một cái. Chú Ba bảo anh ta lập tức buộc dây thừng, để mọi người bắt đầu lần lượt trèo lên. Nhưng mới trèo được ba bốn cái, đột nhiên anh chàng gầy gò ở bên trên bỗng kêu lên: “Ông Ba, không xong rồi, ở đây cũng có nữa, ký hiệu không phải chỉ có một.”