Sở dĩ vừa rồi tôi đột ngột đưa ra luận điểm này là vì bỗng dưng nhớlại lúc bò trong khe núi lửa kia, Muộn Du Bình đã biến mất ngay trướcmắt tôi trong vòng vài giây đồng hồ. Lúc ấy tôi nghĩ nát óc không ra,giờ ngẫm lại thì hẳn phải liên quan đến nếp gấp không gian thật. Do cáithí nghiệm ban nãy quá mức đáng sợ, quả thực là một thí nghiệm phản khoa học, bỗng dưng giả thiết nếp gấp không gian huyền diệu của tôi lại trởthành cách giải thích hợp lý nhất.
Nếu không nhờ Bàn Tử liệt kê ra những giả thiết đó, thì chỉ e sau khi chứng kiến cái thực nghiệm kia, tôi nhất định sẽ khiếp hãi đến quênsạch mọi thứ.
Im lặng hồi lâu, Bàn Tử mới nói: “Được rồi, ai cũng đã được thấy tậnmắt, đừng nhiều lời thêm nữa. Chúng ta phải làm gì để chứng minh điểmthứ ba đây.”
“Không! Không cần chứng minh đâu.” Phan Tử ở đằng kia đột nhiên lên tiếng.
Phan Tử thường nhìn nhận vấn đề cực kỳ thấu đáo, luôn luôn xoáy thẳng vào bản chất sự việc, ví dụ như vừa rồi khi Bàn Tử vẫn còn vọng tưởngmộ đạo sẽ xuất hiện thì Phan Tử đã lập tức phủ nhận hoàn toàn. Điều nàyliên quan tới việc Phan Tử là người trở về từ chiến trường, khi cân nhắc một vấn đề anh sẽ không mang chút tâm lý trông chờ vận may nào hết. Vậy nên khi nghe anh nói tôi cũng hết sức sợ hãi, chỉ e nhiều sự thật anhnói ra lại không nên được nhắc đến vào lúc này.
Nhưng anh lại bảo: “Ở đây có sáu khối thi thể. Chúng ta đặt giả thiết có cả thảy tám người đi vào, vậy hai người còn lại đương nhiên đã thoát ra. Tuy vẫn chưa biết họ ra bằng cách nào, nhưng nếu giả thiết thứ bacủa cậu Ba là đúng thì không ai có thể thoát ra nổi, cho nên chúng takhông cần cân nhắc làm gì nữa. Cân nhắc giả thiết thứ ba có khác nàothừa nhận mình đã chết chắc rồi.”
Lời vừa nói ra, ai nấy đều lạnh toát cả người. Bàn Tử lên tiếng phảnđối: “Sao anh dám chắc có tám người đi vào? Mẹ kiếp, nói không chừng lúc vào cũng chỉ có sáu người thôi.”
Phan Tử thở dài một hơi: “Bàn Tử chết toi, anh còn chưa hiểu à? Thật ra họ vào mấy người không quan trọng.”
Chuyện này không cách nào chứng minh được, làm ầm lên cũng vô ích,tôi thầm nhủ: “Bọn họ rốt cuộc đi vào mấy người cũng chẳng ảnh hưởng gìtới tình cảnh của chúng tôi, nhưng đối với ý chí chiến đấu của mọi người lại đặc biệt quan trọng. Nếu đã có hai người đào thoát thành công thìtinh thần của chúng tôi sẽ hoàn toàn đổi khác. Chúng tôi còn có thể nghĩ xem họ đã thoát thân thế nào, ít ra vẫn còn một tia hy vọng.”
Nghĩ đoạn, tôi chẳng thèm quan tâm bọn họ làm cái trò khỉ biển gìnữa, chạy đến bên mấy thi thể lục sổ sách của bọn họ xem có manh mối gìkhông, may ra thì có người viết nhật ký. Nếu có người ghi lại những ýkiến của họ vào lúc ấy, hoặc viết về chuyện có người thoát ra thì chí ít chúng tôi vẫn còn một tia hy vọng.
Có điều ban nãy xem bút ký tôi chỉ lật qua loa chứ không đọc hếtnhững đoạn văn dài, còn mấy đoạn ngăn ngắn lại chỉ ghi số liệu hoặcnhững mẩu thông tin vụn vặt chứ không có nội dung gì cả.
Tôi nghĩ vào thời điểm cận kề cái chết, có lẽ những người này cũngchẳng ghi chép gì đâu. Khi đứng trước ngưỡng cửa tử vong, chỉ e đến cảđèn chiếu sáng họ cũng chẳng còn nữa. Pin thì đã cạn từ lâu, cũng khôngcó gì để sưởi ấm, cho nên họ mới phải cuộn chặt lấy nhau, rúc vào một xó trong bóng tối mịt mùng. Vậy nếu có tám người tiến vào thì hai ngườikia rốt cuộc đã thoát ra lúc nào? Chắc chắn không phải khi bọn họ còntỉnh táo, vì nếu thế những người khác cũng phải thoát được rồi mới đúng. Vậy không lẽ là lúc bọn họ đã đói đến hoa mắt, lại không có đèn, bốn bề chìm vào tối tăm? Cho nên những người khác mới không biết đã có haingười rời đi sao?
Vậy điểm mấu chốt để chạy thoát, lẽ nào lại là mò mẫm trong bóng tối không một ánh đèn?
Vừa nghĩ đến đây tôi đã ớn lạnh sống lưng. Nơi đây dầu sao cũng là cổ mộ, nếu phải lần mò trong bóng đêm giữa mộ đạo dài hun hút này thì đúng là muốn lấy mạng người ta rồi còn gì.
Những người khác thấy tôi lục lọi tài liệu thì cùng quây lại giúp tôi tìm kiếm. Cứ đứng chôn chân ở đó mà nghĩ vớ nghĩ vẩn cũng chẳng giảiquyết được gì, có đôi khi phải xem cái này cái kia để lấy lại tinh thầnmột chút.
Nghĩ đến chuyện cuối cùng ánh sáng sẽ lụi tàn, tôi bèn bảo bọn họđừng lãng phí điện nữa. Đèn pin đều phải tắt, chỉ mở lò sưởi thôi cũngđủ sáng rồi. Chúng tôi quây lại trước bếp lò, ba quyển bút ký và mộtcuốn tiểu thuyết phân cho bốn người giở ra xem, cố lần tìm manh mốitrong từng câu từng chữ.
Tôi lật một cuốn bút ký với những hàng chữ thanh thoát, người viếthẳn phải là phụ nữ. Giở thử vài trang thì thấy ghi toàn tên người và sốđiện thoại, phía sau còn có danh sách khách mời ăn cơm, có số điện thoại của khách sạn ở núi Trường Bạch, đôi chỗ vẽ mấy cái bản đồ đơn giản kèm thêm vài địa chỉ và ghi chú nữa. Tôi đọc thấy hồi năm 1994 hình nhưngười phụ nữ này còn bị bệnh phải nằm viện, trong này có ghi là cần táikhám. (có phải sổ của dì Hoắc Linh không á >A
Giở thêm vài tờ thì chỉ thấy giấy trắng, nhưng tôi vẫn kiên nhẫn lậttừng trang, hi vọng cô ấy có thể viết lại thêm chút gì, đang lật thì Bàn Tử mở miệng: “Có manh mối chỗ này này.” Nói rồi hắn đọc lầm rầm: “Hômnay bán món đồ cuối cùng mang từ biển về, được 3000 đồng, 1500 trả lãoLý, dứt hết nợ nần, đi với cha này có ngày bể mánh.”
Tôi lắc đầu cười khổ, lại nhìn sang Phan Tử ngồi bên kia. Quyển bútký của anh mỏng nhất, gần như chẳng có gì nên đã kiểm tra xong rồi. Nhìn đến Thuận Tử thì thấy hắn đang say sưa đọc tiểu thuyết, rõ ràng là đãnhảy cóc đến đoạn tình cảm mùi mẫn nhất của vai chính trước lúc đi xa.
Bàn Tử nhìn chướng mắt, bèn giật phắt lấy quyển sách, lên giọng chửibới: “Bảo cậu tìm manh mối cậu lại đi xem văn hóa phẩm đổi trụy, lươngtâm của cậu mục ruỗng quá rồi! Tịch thu!”
Vừa giật một cái, quyển truyện đã rã rời ra từng mành, giấy bay lả tả trên mặt đất.
Tôi rủa một tiếng, vừa sạc cho Bàn Tử một trận vừa bật đèn pin đinhặt. Bất thình lình Phan Tử kêu lên: “A, có tấm ảnh kìa.” Nói đoạn anhbới từ mớ giấy lộn ra một bức ảnh đen trắng đã ố vàng.
Tôi cầm lấy ngắm nghía, đột nhiên cảm thấy nó trông rất quen, nhìn kĩ hơn một chút, đầu óc liền kêu lên ong óc, suýt chút nữa phát sặc — Thìra nó chẳng xa lạ gì, mà chính là tấm ảnh nhóm chú Ba đã chụp chung ởbến tàu trước chuyến đi Tây Sa.