Trần Bì A Tứ nhìn la bàn, lúc xuống dưới này đã là chạng vạng, sắctrời u ám, còn giờ đây trăng đã treo đỉnh đầu. Mình không mang đuốc, màgiờ đã đi xa như vậy, chẳng biết phải về đường nào, xem ra phải giả vờbị lạc đường rồi chờ người Mèo đến cứu thôi. Nghĩ đoạn, ông ta kiếm mộtcành cây gãy và ít lá khô, nhóm một đống lửa trại nhằm thu hút sự chú ýcủa người khác, còn mình thì lại chui vào chân tháp, bò lên nơi cao nhất để trông ra bốn phía xem mình đang ở nơi nào.
Căn cứ vào hình ảnh núi Phật Nằm khi nhìn từ trên cao xuống, cộng với phán đoán của riêng mình, vị trí lúc này của ông ta hẳn là nơi cây cốimọc lộn xộn nhất. Mặt đất ở đây hình như hơi trũng hơn so với bốn phíaxung quanh một chút, đó là vì cửa địa cung bị đất tạp (đất bụi từ kiếntrúc, đất bụi theo thời gian) vùi lấp mất, cũng là vì khí hậu đặc trưngcủa Quảng Tây khiến các tầng đất chứa nhiều nước, không rắn chắc. Hơinước càng thấm vào sâu, bùn đất ở dưới càng hình thành nhiều bọt khí, có một lực lớn tác động lên là cả tầng bùn đất đó sụp lún xuống như đậpbẹp một cái bánh bao không nhân.
Như vậy, Trần Bì A Tứ lập tức rút ra hai kết luận. Thứ nhất, địa cung này lớn, nhưng không sâu, giờ chỉ cần không quá hai mươi phút là đàoxuống đến nơi. Thứ hai, bùn đất này tương đối xốp, sẽ không làm tiêu hao quá nhiều sức lực.
Lúc này, ông ta liền lâm vào do dự, rốt cuộc có nên vào địa cung nàyrồi hẵng trở ra hay không. Thực ra, để sau này hẵng quay lại đây cũngkhông phải chuyện khó khăn. Nhưng Trần Bì A Tứ, cũng như tất cả nhữngtên trộm mộ khác, một khi đã biết rõ dưới đó có gì thì tuyệt đối khôngthể kìm được lòng hiếu kỳ.
Cuối cùng, ông ta cắn răng một cái, nghĩ bụng thôi kệ mẹ nó, nghĩnhiều làm gì, thứ dưới lòng đất này ông đây đã thèm muốn rồi, lát nữađám người Mèo mọi rợ kia mà tìm được đến đây, ông giết hết rồi ném vàođịa cung thì có mà trời biết đất biết không ai biết.
Trần Bì A Tứ lấy cái xẻng gấp ra. Ông ta không mang theo xẻng LạcDương, cũng không có cách nào để định vị, với lại Phật tháp này suy chocũng cũng là của hiếm. Bên trong không có quan tài, cũng không có thứcủa nợ gì nhảy xổ ra, cho nên ông ta dựa vào trực giác, bắt đầu đào mộtlối vào ngay sát chân tháp.
Rất nhanh, ông ta đã chạm đến nóc địa cung. Nóc địa cung lại khôngdùng đá tảng xây nên, mà dùng cả thân cây cắt thành những khối vuông đều chằn chặn, đắp lên làm nóc. Ông ta mừng quýnh, dùng cưa khoét một góckhúc gỗ, tức thì khúc gỗ mục nát liền rơi vào bên trong địa cung, khônglâu sau vọng lên tiếng vang. Ông ta liền cuống quít lấy đèn pin ra, soivào bên trong.
Kính Nhi Cung quả đúng như tên, mặt trên có bao nhiêu tầng tháp, mặtdưới có từng ấy tầng địa cung, cho nên địa cung này cực kỳ sâu. Từ trêncao nhìn xuống, ở giữa mỗi tầng không có sàn gác, chỉ thấy phía dưới đen kịt, tối như hũ nút.
Đèn pin chiếu xuống chỉ thấy những làn sương trăng trắng, chẳng biết bên dưới là cái gì.
Trần Bì A Tứ nhớ đến lời của mấy người Mèo nói, phần dưới tháp đểtrấn giữ yêu quái, cũng không khỏi có chút lo lắng. Tuy nhiên, lo lắngqua mau, hiện tại chỉ có nhiệt huyết dâng tràn. Ngay lập tức, ông taliền cảm thấy không khí trong địa cung không thành vấn đề. Ông ta móchai chân vào khúc gỗ trên nóc đỉnh, xoay người treo ngược thân mình nhưmột cái lưỡi câu, đầu hướng xuống lòng địa cung, sức nặng toàn thân đềudồn cả vào hai chân.
Sau khi treo người xuống, trước tiên, ông ta chỉnh lại tư thế mộtchút, rồi chiếu đèn pin lên vòm trần bằng gỗ của địa cung. Loại địa cung kiểu này bố trí rất nhiều cơ quan, cách thức có phần giống cổ mộ, có lẽ chứa rất nhiều trang sức. Trần Bì A Tứ chiếu đèn pin một vòng, chợtphát hiện trên trần gỗ của địa cung có khắc một lượng kinh văn đồ sộ.
Kinh văn khắc vào gỗ, quét lên một lớp sơn son, chính là chữ Phạn.Trần Bì A Tứ chữ Hán còn chả biết nhiều, kinh văn gì gì đó đương nhiênlà xem không hiểu.
Thế nhưng, bản năng cho ông ta biết đây quả thực là thứ để trấn mahay hàng yêu gì đó, trong lòng không khỏi thầm than, không biết cái địacung này để phong ấn thứ gì đây?
Nhìn xuống dưới nữa, ông ta mới thấy rõ hơn. Mỗi một tầng đều có mộtvòng tường bao quanh nhô lên cao, từ trên nhìn xuống, từng tầng từngtầng xếp đều nhau trông như một cái bậc thang khổng lồ. Mỗi tầng đều cónhững bức tượng La Hán mặc tăng bào màu đen kích cỡ như nhau, màu sắcsặc sỡ, vô cùng tinh xảo. Tất cả các pho tượng đều cúi đầu, nhìn xuốngdưới đáy địa cung tối mịt. Toàn bộ địa cung tổng cộng có hơn mười tầng,mỗi tầng đặt đầy các bức tượng La Hán với đủ loại động tác, tư thế,phỏng chừng phải hơn trăm pho.
Trần Bì A Tứ nhìn những bức tượng La Hán này, trong lòng cực kì căngthẳng, nhưng lại không rõ mình đang sợ hãi cái gì, trong đầu không khỏinảy lên ý định lùi bước.
Chiếc đèn pin trong tay lại tiếp tục di chuyển, ông ta muốn nhìn xemngoài mấy bức tượng La Hán thì còn gì nữa không. Lúc này, đột nhiên tayông ta cứng đờ, ánh sáng từ đèn pin dừng lại, chiếu thẳng vào một vịtrí.
Cách ông ta chừng sáu bảy tầng, ở một vòng tường nhô lên cao, có mộtbức tượng La Hán vô cùng quái gở. Bức tượng La Hán này hoàn toàn khônggiống mấy bức tượng khác, khuôn mặt không nhìn xuống dưới địa cung màlại ngẩng đầu lên, mặt đối mặt thẳng với Trần Bì A Tứ, chòng chọc theodõi ánh mắt đang nhìn khắp xung quanh của ông ta. Ánh đèn pin vừa chiếutới, khuôn mặt trắng bệch dữ tợn lập tức hiện ra, nếu không phải bứctượng đứng im không nhúc nhích gì thì xém chút nữa ông ta còn tưởng mình gặp ma quỷ rồi.
Trần Bì A Tứ sợ đến lạnh cả xương sống, trong phút chốc không dámđộng đậy gì nữa, hai chân cũng như nhũn ra, người bắt đầu trượt xuống.
Nói đến ma quỷ, Trần Bì A Tứ thật ra không sợ gì cả. Ông ta đã giếtquá nhiều người, có thể nói là tội ác tày trời, sao vẫn chưa thấy con ma nào hiện về báo thù? Tuy nhiên, ở cái thời của ông ta, ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng mê tín dị đoan. Trần Bì A Tứ cho rằng, mình cóthể hồ đồ suốt nhiều năm như vậy, âu cũng là do tổ tiên phù hộ.
(Con người, chung quy cũng đều có một phần tín ngưỡng, người hànhnghề bất chính[7] thì bái Quan Công. Trong giới trộm mộ, người Bắc pháibái thần Chung Quỳ, Nam phái thì không, nhưng ở Trường Sa có người giảithích rằng, người Nam phái đã từng có thời bái lạy Hoàng Vương.
Hoàng Vương là gì? Hoàng Vương, hay Hoàng Sào, “Mãn thành tận đáihoàng kim giáp”, chính vị này. Vì sao lại bái người này? Nghe các bậctrưởng bối nói, có nhiều lý do. Thứ nhất, người này có thể nói là kẻgiết người hạng nhất. Dân gian lưu truyền: Hoàng Sào giết tám trăm vạn(8 triệu) người, đều là những người tai kiếp mệnh khó thoát. Tức là ýgì? Chính là ý, ông ta giết người là giết có chỉ tiêu, có mức độ, không giết hết tám trăm vạn thì không hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra, khôngbiết là tiểu thuyết nào viết, hay chính là truyền thuyết dân gian TrungQuốc nói quá lên, rằng Hoàng Sào chính là La Hán Mục-kiền-liên (khôngphải Dịch Kiến Liên) chuyển thế, vị này đã vì cứu mẹ mình khỏi địa ngụcmà giải phóng mất tám trăm vạn ngạ quỷ, vì vậy, Phật Tổ để ngài chuyểnthế, giết tám trăm vạn người đền bù cho địa ngục. Nói cách khác, ngàitrở về là thay Phật Tổ tuyển dụng nhân công lao động =]])
Một pho tượng ngẩng mặt ông ta cũng không sợ gì, thế nhưng, khuôn mặt ấy khéo làm sao lại đối diện ngay với mặt ông ta, ông ta cảm thấy cónét gì đó quái lạ. Lẽ nào ngay lúc xây địa cung, người thiết kế đã đoánđược vị trí ông ta đào xuống, bèn sắp xếp bức tượng như thế để dọa ôngta sợ mất mật chơi?
.
.
Chú thích.
[1] ba địa: một loại thực vật họ bách, tên khoa học là Sabina procumbens. [2] ong địa hoàng: một loại ong thuộc tỉnh Quảng Đông, loại này chủyếu chia ra làm hai giống. Một giống gọi là “ong quỷ đầu” vì phần bụngeo có màu đen, hung dữ, độc tính rất mạnh. Loại còn lại là “ong hoàngyêu” vì phần bụng eo màu vàng, không chỉ hung dữ và độc tính rất mạnh mà còn có thể làm tổ ở trên mặt đất nữa. Loại trong truyện nhắc đến chínhlà loại ong hoàng yêu này. [3] nguyên là “mật diêm”: một loại tháp Phật với các mái hiên xếp lớp, đa số thường xây với kết cấu bằng đá.