Bàn Tử đành cười trừ, giơ tay tỏ vẻ đầu hàng. Tôi biết rõ tính hắn,bây giờ có nói gì cũng vô dụng. Không biết làm sao để giữ chân hắn, tôiđành tự nhắc mình phải để mắt đến hắn, tránh cho hắn gặp rắc rối.
Tiếp tục hướng vào sâu bên trong, chúng tôi đã thấy điểm cuối đạiđiện, ở đó có một cánh cửa đá ghép lại từ bốn phiến cẩm thạch. Trục cửađắp ngọc lưu li đốt thành hình bách túc bàn long, cạnh cửa là bức phùđiêu Nhạc vũ bách hí đồ, trên cửa trạm trổ hình hai đứa trẻ đứng gác,phía sau lại không có phiến đá chặn, cửa chỉ dùng lính gác để trang trí. Sau khi cạy mở cánh cửa, chúng tôi phát hiện đằng sau nó là hành langthông đến hậu điện linh cung, tối đen như mực.
Bàn Tử nhìn hai con rồng trên cửa, tinh thần lập tức hào hứng trởlại, hai mắt sáng bừng, nói với chúng tôi: “Tôi từng thấy loại cửa này ở một phiên đấu giá. Cái này gọi là Bàn long trục lưu ly xuyên, một phiến cửa mà giá lên tới 200 triệu đô la Hồng Kông rồi, ái chà, cánh cửa nàyxem ra cũng không nặng lắm nhỉ…”
Tôi biết trong đầu hắn nghĩ gì, bèn hắt cho một gáo nước lạnh: “Anhtỉnh lại đi, đó là người ta hét giá thôi. Bây giờ trong các giao dịch đồ cổ bằng tiền, thứ gì có giá vượt quá 2000 vạn đã là giá trên trời, cửanày nhiều lắm cũng chỉ có giá 40 vạn thôi.”
“Không thể nào.” Bàn Tử không tin được kêu lên, “40 vạn mà chém lên thành 200 triệu? Có chuyện quá đáng như vậy sao?”
Tôi thầm nghĩ hai con cá trong túi mình đều trị giá 2000 vạn đây,nhưng bán ra có ma nó thèm mua. Bây giờ mấy mánh khóe bán đấu giá ai màchẳng biết, thằng nào cũng muốn ba năm không mở cửa, mở một cái là ăn cả đời, vớ được con gà chịu bỏ ra 200 triệu để mua một cánh cửa thì cảquãng đời còn lại chỉ lo ăn chơi nhảy múa cho hết số đó thôi.
Thế giới quan của Bàn Tử thế là đã bị tôi phá hủy phũ phàng, làm hắnchỉ còn biết đần mặt ra nhìn cánh cửa. Chúng tôi mặc kệ hắn, tiến sâuvào hành lang, hướng về phía hậu điện.
Hậu điện thông thường chính là cổng vào địa cung, bình thường đều đặt một cỗ quan quách mang tính trang trí, đốt nến trường sinh quanh nămkhông tắt, hoặc là đặt một lượng lớn tế phẩm, do người giữ lăng định kỳthay đổi. Đông Hạ là một nước nhỏ nằm ẩn dật nơi biên cảnh, lúc bấy giờluôn ở vào tình trạng chiến tranh nên đoán chừng cũng không có nhiều đồtốt, có điều lối vào địa cung thường đặt trong đó nên chúng tôi nhấtđịnh phải vào xem.
Tiến sâu vào hành lang, hai bên trái phải và trên đỉnh đầu phủ kínnhững bức bích họa, trên mặt bích họa giăng lên một tầng băng, trông mờmờ ảo ảo. Từ sau khi chứng kiến bức bích họa hai lớp trong khe nứt kia,tôi cảm thấy khá hứng thú đối với hình thức ghi chuyện này, bèn bật đènpin lên ngắm nghía.
Vừa nhìn thoáng qua đã lạnh người, chỉ thấy trên những bức bích họanày hầu như đều vẽ hình Bách túc long vần vũ trong mây, cuộn mình có,bay lên cũng có, phủ kín cả bức tường, thoạt nhìn giống như một bầy rết.
Bích họa chia làm mấy phần, có bức vẽ rất nhiều binh sĩ mặc áo da cừu, hướng lên Bách túc long trên trời mà lễ bái.
Bức tranh đầu tiên còn vẽ hai con bách túc long đang quấn lấy nhau, không biết chúng nó đang mây mưa hay là đánh lộn nữa.
Trên mỗi bức bích họa, Bách túc long đương nhiên là chủ thể, nhữngnhân vật xung quanh đều hết sức nhỏ bé, cũng hết sức nhún nhường, rõràng lòng sùng bái của người Đông Hạ đối với loại rồng lai rết này cònmãnh liệt hơn lòng sùng bái của người Hán đối với Bàn long.
Diệp Thành lấy máy ảnh ra, chụp lại toàn bộ bích họa. Những bức hìnhnày có thể sẽ dùng đến khi bán minh khí, bởi vì Đông Hạ là đất nước cònchưa được công nhận, nếu có ảnh chụp lăng mộ thì có thể hét giá lên vàilần.
“Mọi người nói xem người được chôn trong lăng bồi táng này là ai? Làvợ của Vạn Nô vương hay là thủ hạ, sao lại vẽ loại bích họa này?” DiệpThành vừa chụp tanh tách vừa hỏi.
Tôi cũng không biết, trong lòng cũng hiểu là có điểm bất thường.
Thông thường chủ nhân lăng bồi táng có hai loại, một là con nối dõihoặc họ hàng thân thiết, hai là cận thần được sủng ái. Con nối dõi hayngười thân vào bích họa sẽ được miêu tả bằng những cảnh tượng sinh hoạtbình thường, còn với cận thần thì là cảnh tượng trên triều đình, ví dụnhư quan văn trị thủy, quan võ cầm quân. Bích họa này lại vẽ nhiều hình rồng thần như vậy, nếu đặt ở lăng chính cũng coi như bình thường, nhưng đặt ở chỗ này thật không thích hợp. Hơn nữa… Bên trong bích họa khôngtìm thấy hình ảnh chủ nhân lăng mộ đâu cả.
Cho dù lấy rồng làm chủ thể, những bức họa này đều chú trọng làm nổibật sự uy nghiêm của rồng thì trong những kẻ đang thành kính dập đầu kia lẽ ra phải có một người đứng đầu. Do đây là lăng bồi táng nên ngườiđứng đầu tất phải là Vạn Nô vương, mà chủ nhân lăng mộ này phải đứng hầu bên trái hoặc bên phải Vạn Nô vương mới đúng. Nhưng trong bích họa,theo cách ăn mặc thì người trong đó đều là nô lệ hoặc binh lính, khôngcó người đứng đầu.
Bích họa này đặt trong hoàng lăng quả thực không hợp với lẽ thường,không tuân theo tam quy ngũ thường trong bích họa, nói cách khác bíchhọa này đặt ở đây có cũng như không.
Bàn Tử đột ngột hỏi: “Hay là bích họa này cũng có hai lớp?”
Tôi sờ thử một cái, thấy bích họa có vài chỗ đã tróc ra nhưng bêndưới cũng không phát hiện có gì đặc biệt, bèn lắc đầu nói không phải.Đằng sau bức bích họa bên trong khe núi lửa kia chắc chắn có một câuchuyện, bằng không ở một nơi như thế sao lại có hai lớp bích họa, thựcsự không tài nào hiểu nổi.
Tôi vừa đi vừa suy nghĩ miên man, đi khoảng hơn hai trăm mét thìbích họa đột nhiên kết thúc, thì ra đã đến cuối hành lang, lối ra hậuđiện đã ở ngay trước mắt.
Lối ra không có cửa chắn ngang, nhưng ở chính giữa lại bày một cái đế đèn chân hạc bằng thanh đồng, cao chừng nửa thân người, tạo hình kì lạ, mặt ngoài bao phủ một lớp băng mỏng màu trắng, khiến cho màu sắc thoạtnhìn hơi đen.
Chúng tôi ra khỏi hành lang, bước vào hậu điện. Bàn Tử châm một ngòipháo lạnh để quan sát xung quanh, phát hiện kết cấu của hậu điện cơ bảnlà giống đại điện, nhưng nhỏ hơn nhiều. Chúng tôi có thể trực tiếp nhìnđến tường điện ở bốn phía, trên tường vẫn là những bích họa Bách túclong bay đầy trời, màu sắc trước đó chắc là đỏ tươi nhưng bây giờ đãđông lạnh thành màu xám tro.
Trong hậu điện trống rỗng, không có vật bồi táng nào, không cần phảitìm bởi vừa nhìn cái là biết. Giữa phòng là ba khối giường đá màu đenkhắc hình Bàn long, bên trên chạm trổ kín hoa văn hình mây, đã bị đóngbăng đến rạn nứt.
Cái này gọi là đình quan đài, quan quách sau khi đưa vào sẽ được đặttạm lên đó. Ở đây có ba cái đình quan đài, hiển nhiên lúc nhập liệmkhông thể chỉ có một cỗ quan tài, vợ con của người bồi táng hẳn cũngđược chôn cùng lúc với hắn.
Chôn cùng người bồi táng, nghe qua thì thấy vô cùng bất hạnh, nhưng vào thời ấy cũng không còn cách nào khác.
Mặt đất phía sau ba cái giường đá gồ lên một phiến đá hình chữ nhậtcực lớn, trên phiến đá chạm khắc hai con quái điểu mặt người vờn quanh,chính giữa phiến đá chạm nổi Thái cực Bát quái đồ. Đây là tảng đá phongmộ, cửa vào địa cung hiển nhiên nằm dưới phiến đá này.
Trừ mấy thứ này ra, hậu điện chẳng gì nữa, trống trải quá mức.
Bàn Tử nhìn một vòng rồi nói: “Lão già Vạn Nô đúng là keo kiệt quáđáng, xây cho thuộc hạ cái nhà mà còn tiếc tiền mua đồ đạc, thế này aimà chịu nổi. Chắc chắn đồ tốt lão ta đã độc chiếm hết rồi.”
Hoa hòa thượng gạt đi: “Đừng nói bậy, có thể xây một lăng mộ lớnchừng này mà lại đi tiếc mấy món tế phẩm sao? Tiên sư nó, chuyện nàychắc chắn phải có nguyên nhân đặc biệt.”
Tôi cũng có cảm giác chuyện này không hề đơn giản. Tình hình bêntrong hậu điện có cái gì đó không hợp lý, dù chỉ là một nước nhỏ nằm sát biên giới, như chúng tôi đã đoán từ trước là thực lực quốc gia khôngđủ, nhưng gì thì gì thuyền hỏng cũng còn ba phần đinh; không có vàng bạc thì chí ít cũng phải có vài món đồ đồng chứ.
Lại tìm một vòng, bốn phía đều không có đường thông đến nơi khác. Cho đến khi lại gần phiến đá phong mộ kia, Bàn Tử vung tay, dùng sức nhấcthử, thấy không chút xê dịch mới gọi người khác tới giúp.
Đề phòng bên dưới phiến đá có cạm bẫy cát độc nước độc gì đó, Muộn Du Bình cẩn thận kiểm tra mặt đất lát gạch xanh bên cạnh phiến đá phong mộ một lượt, thấy không có vấn đề gì, Lang Phong mới đặt Thuận Tử lên mộtcái đình quan đài bên cạnh rồi hợp sức với Hoa hòa thượng và Diệp Thànhvần phiến đá qua một bên.
Mấy người vạm vỡ khí lực quả thực không đùa, chỉ nghe uỳnh một tiếng, phiến đá đã nhích được một đoạn. Bọn họ tiếp tục dùng sức, từ từ đẩytảng đá dẹp qua một bên.
Chúng tôi nhìn xuống phía dưới phiến đá, ai nấy đều lắp bắp kinh hãi, nơi đó không có bất kì dấu vết nào của một đạo động bí mật (không cótảng đá lấp cửa mộ) mà chỉ thấy toàn là gạch xanh giống hệt nền đất cạnh đó. Chỉ có một điểm khác là phiến đá đặt ở chỗ này đã mấy trăm năm, inlên nền đất một vết hình chữ nhật, lấy chân rờ lên sẽ thấy hơi lõm vào,thì ra gạch xanh bên dưới phiến đá đã bị lún xuống mấy li.
“Sao lại thế này?” Phan Tử nghi hoặc hỏi: “Phiến đá phong mộ này là giả, đặt đó chỉ để trang trí thôi à?”
“Không phải, đây là bước cơ bản nhất trong mai táng, muốn đùa gì cũng không đùa cái này được, cửa vào nhất định ở ngay đây.” Hoa hòa thượngnói.
“Hay là nó nằm ngay phía dưới tầng gạch xanh này?” Diệp Thành hỏi
Tôi nhíu mày, gạch này không có nước thép lỏng lấp kín các khe, nhìnqua hình như có vấn đề, nhưng muốn đưa ra kết luận cụ thể thì tôi lạikhông biết phải nói thế nào.
Bàn Tử nói: “Mặc kệ nó. Dù sao ở đây cũng chẳng còn ai khác, khó khăn lắm mới đổ được một cái hoàng lăng, cứ phá gạch ra là biết ngay thôi.”
Diệp Thành lập tức phụ họa, mà thật ra tôi cũng nghĩ như vậy. Hiệngiờ mấy người chúng tôi đã không còn gọi là trộm mộ nữa, mà rõ ràng làcướp mộ. Trộm mộ còn sợ kinh động dân cư xung quanh, sợ gặp phải cảnhsát tuần tra, nhưng bây giờ cục cảnh sát gần đây nhất cũng đã cách xahơn tám trăm dặm, chúng tôi căn bản chẳng còn sợ quái gì nữa.
Chúng tôi đều cảm thấy adrenalin trong máu bắt đầu dâng cao. Thờiđiểm đào bới và mở cửa địa cung luôn khiến người ta hưng phấn, có đôikhi mở nắp quan tài cũng không hồi hộp đến thế, điều này dù là ai cũngkhông thể phủ nhận.
Muộn Du Bình ngồi xổm xuống, dùng hai ngón tay dài dị thường của mình kẹp lấy một viên gạch, dùng sức rút mạnh, cứ thế rút dần đám gạch trênmặt đất lên. Diệp Thành với Hoa hòa thượng thấy thế thì há mồm trợn mắt, miệng không sao khép lại được.
Bàn Tử có vẻ rất đắc ý, bày ra vẻ mặt: Thấy chưa? Xem người anh emcủa ta có lợi hại không? Muộn Du Bình lại chẳng thèm nể mặt hắn, từ đầuđến cuối không liếc hắn lấy nửa cái. Có một cái lỗ hổng thì dễ rồi,chúng tôi đều tiến lên trợ giúp, dùng cuốc chim đào gạch lên.
Điều khiến người ta cảm thấy kỳ lạ nhất chính là những lớp gạch bêndưới vẫn không hề có vết tích được gắn bằng thép lỏng mà hoàn toàn làkết cấu đan xen lẫn nhau, thành ra cũng không khó đào.
Dự cảm mơ hồ của tôi lại nặng nề thêm một chút, bởi vì lối vào địacung thường là bộ phận kiên cố nhất, năm đó lão Tôn mặt rỗ (*) đào mộcủa Từ Hi, nếu không nhờ thuốc nổ thì ngay cả lớp gạch ngoài cùng củađịa cung cũng chẳng phá nổi. Nơi này lại có thể thoải mái dỡ từng viêngạch ra thì thật bất thường, hay là bên dưới có thứ gì quái đản chăng?
(*) Tức Tôn Điện Anh, tướng dưới quyềnTưởng Giới Thạch, người ra lệnh đào lăng Từ Hi, ai đọc Lư Châu kí sự thì đều biết ông này rồi đó.
Nhưng không thấy Muộn Du Bình nói gì, bình thường nếu có vấn đề chắcchắn hắn sẽ phát hiện ra ngay. Nếu hắn không nói lời nào, tôi cũng không có tư cách gì mà ý kiến.
Không mất nhiều thời gian, chúng tôi đã đào ra được một cái hố to,khi lớp gạch cuối cùng bị dỡ ra thì chỉ đếm được có bảy lớp. Đại khái do độ cao của kiến trúc này là cố định, nếu không muốn mái điện chạm vàođỉnh động thì chỉ có cách xây nền móng mỏng đi. Bên dưới cái hố lộ ramột khối màu đen, hình như cùng loại với tảng đá phủ kín hoa văn mairùa.
“Đây có phải tảng đá chắn cửa mộ không?” Diệp Thành phấn khởi kêu lên.
“Không phải.” Hoa hòa thượng gõ gõ mấy tiếng lên phiến đá, gạt hếtmấy viên gạch xung quanh ra, dưới lớp gạch hiện ra một con rùa hai đầubằng đá đen, to cỡ cái bàn bát tiên, hoa văn trên mai rùa nhìn kĩ thì ra là gương mặt một phụ nữ.
“Chuyện quái quỷ gì đây?” Mọi người đều cảm thấy khó hiểu, đây rõràng là lối vào địa cung, không hiểu sao lại chôn một con rùa đá.
“Tại sao không thấy cửa mộ?” Phan Tử ban nãy vừa gắng sức, giờ vẫn còn phì phò thở dốc.
“Dịch nó ra rồi tính sau! Xem bên dưới con rùa này có cái gì.” Hoa hòa thượng cũng bó tay, bắt đầu chỉ huy lộn xộn.
Thực ra không cần dịch chuyển cũng biết bên dưới con rùa chắc chắnchẳng có gì cả. Tôi đã thoáng thấy đá núi màu đen bên dưới con rùa,chúng tôi đã đào đến tận đáy động rồi.
Vài người lúng túng nhảy xuống hố, tính nâng con rùa đá lên. Nhưngmới khom lưng xuống, Bàn Tử bỗng kêu một tiếng, hình như đã phát hiện ra có gì không ổn.
Tôi ngó xuống thì thấy cái xẻng công binh Bàn Tử đang đeo trên lưngkhông hiểu vì sao lại dính chặt vào mai rùa, Bàn Tử ra sức kéo, nhưngvừa buông tay ra thì cái xẻng lại bị hút vào.
Tôi thấy ngờ ngợ, chẳng lẽ con rùa này khắc từ một khối nam châm sao?
Mấy người khác cũng vây lại xem, ai nấy đều thấy lạ. Bàn Tử lấy mộtđồng tiền xu thả lên lưng rùa, “keng” một tiếng, đồng xu dính chặt vào.Hắn lẩm bẩm: “Mẹ nó, đùa nhau đấy à. Sao lại có nam châm lớn như thế,chủ nhân cái mộ này làm nghề thu mua đồng nát chắc?”
Trần Bì A Tứ ngồi một bên nghỉ ngơi, thấy chúng tôi phát hiện ra thứgì, cứ nghĩ đó là lối vào, bèn hỏi han tình hình, Hoa hòa thượng mới báo cáo lại mọi chuyện cho lão.
Còn chưa nói xong, sắc mặt Trần Bì A Tứ đã biến đổi, lão vội kêuDiệp Thành đỡ mình xuống, đến gần con rùa kia. Lão lấy từ trong túi ramột cái kim chỉ bắc, vừa liếc qua một cái đã xanh mặt, giận dữ đập cáikim chỉ bắc kia xuống, lạnh lùng nói: “Không xong, chúng ta đã bị lừa!Lăng bồi táng này chính là một cái bẫy, chúng ta trúng kế rồi!”
—————————————————–
(1) Đăng nô: là loại đèn có hình người đội bát dầu, tùy kiểu đăng nômà hình người chỉ là tượng gốm hay là thi thể người thật bị nhúng sáptránh hư thối rồi rót dầu vào châm lửa đốt như một cây nến thật. Đây làhình đăng nô thông thường: