Hoa hòa thượng trả lời: “Bởi vì tài liệu của chúng tôi trực quanhơn.” Ông ta móc một tấm lụa trắng từ trong túi áo lót, trải ra trướcmắt chúng tôi. Tôi vừa nhìn thấy, ruột gan bỗng chốc rơi tuột xuống.
Không ngờ thứ đó chính là con Xà mi đồng ngư trong buổi bán đấu giá.
Tại sao nó lại nằm trong tay bọn họ, chẳng phải đã nói là không có người mua sao? Tôi nhíu mày, đột nhiên hiểu ra.
Đã không có người mua, mà cá lại nằm trong tay Trần Bì A Tứ, vậy lẽ nào Trần Bì A Tứ chính là người bán?
Toàn thân tôi run rẩy, cố gắng giữ thân thể ổn định, không để cho bản thân lộ ra vẻ mặt quá mức kinh ngạc. Thế nhưng lòng mề đã xoắn thànhmột cục, vô số câu hỏi bùng nổ trong đầu, nhất thời cũng không biết mình đang sợ hãi hay là hưng phấn, chỉ thấy tay chân đột ngột lạnh ngắt như bị rút máu.
Hoa hòa thượng không hề để ý đến nét mặt của tôi, tiếp lời: “Loại cáđồng này là một biến thể của rồng, cụ nhà chúng tôi nhờ cơ duyên xảo hợp mới lấy được, tôi tin chắc người chế tác ra nó phải biết rõ nội tìnhnước Đông Hạ. Lạ nhất là người này sử dụng thủ pháp vô cùng khéo léo đểlưu lại một đoạn thông tin tuyệt mật trên thân cá, các cậu xem đi.”
Ông ta đưa con cá lại gần đèn bão, những mảnh vẩy cá mạ vàng phảnchiếu ánh kim lấp lánh, in lên bức bích họa vô vàn điểm sáng li ti. Hoahòa thượng dịch chuyển thân cá, những điểm sáng bắt đầu biến đổi, dầndần lại hóa thành những con chữ lốm đốm.
“Bí mật nằm ở đây, trên vẩy cá này tổng cộng ẩn giấu bốn mươi bảy chữ Nữ Chân.”
Trong lòng tôi a lên một tiếng, thầm nhủ hóa ra còn có thứ kỹ xảonày. Tôi nắm chặt hai con Xà mi đồng ngư trong túi, lắp bắp hỏi ông ta:“Nó…nó viết cái gì vậy?”
“Vì tư liệu trên con cá không hoàn chỉnh nên tôi còn chưa giải mãđược hết. Nhưng tôi có thể khẳng định, người làm ra con cá này muốnghi lại vài chuyện mà không muốn người ta phát hiện ra, lưu giữ lịch sửchân thực của Đông Hạ.” Hoa hòa thượng nói có phần đắc ý, “Thật ra trước khi nhìn thấy vật này, căn cứ vào rất nhiều dấu vết để lại, tôi đã suyđoán rằng nhà nước Đông Hạ chắc chắn từng tồn tại, có điều họ đã rút sâu vào núi lớn, vả lại không biết dựa vào điều gì mà một nhà nước nhỏ béyếu ớt như thế vẫn đứng vững vàng giữa một bên là Mông Cổ hùng mạnh vôsong, một bên là Triều Tiên như hổ đói rình mồi trong suốt mấy trăm năm. Tôi từng nghiên cứu ghi chép của Cao Ly (tên cũ của Triều Tiên), mãi cho đến trước khi nhà Minh thành lập, còn có người đào sâm bắt gặpnhững kẻ ăn mặc kỳ quái hoạt động ở chỗ này. Tôi nghĩ đó là một bộ phậndân cư còn sót lại của nước Đông Hạ.”
Ông ta lại chỉ vào con cá, nói tiếp: “Những mẩu ghi chép vụn vặttrong này đã chứng minh cách nghĩ của tôi là đúng. Nước Đông Hạ sau khiquyết chiến với Mông Cổ đã lui đến biên giới giữa Cát Lâm và Triều Tiên, vẫn náu mình tồn tại suốt mấy trăm năm, tổng cộng có mười bốn vị hoàngđế. Mông Cổ và Triều Tiên không dưới một lần muốn tiêu diệt đất nước bénhỏ này, nhưng vì một lý do kỳ lạ mà tất cả đều thất bại.”
“Lý do gì?” Phan Tử hỏi: “Hòa thượng, anh nói chuyện thẳng thắn chút được không?”
Hoa hòa thượng nhún vai: “Tôi không biết. Tư liệu trên con cá kiakhông đầy đủ, đảm bảo còn có vật khác ghi lại phần còn thiếu. Nhưng căncứ vào những chữ trong tay, tôi dám nói nước Đông Hạ đứng vững được hẳnlà vì đã có những chuyện vô cùng ly kỳ xảy ra, còn nội dung phía sau thế nào thì chịu. Chúng tôi vẫn luôn muốn tìm, nhưng tiếc thay ông cụ nhàchúng tôi đã lùng sục bao nhiêu năm vẫn không thấy những phần khác đâucả.” Ông ta ngừng một lát rồi lại nói: “Các cậu có biết câu cuối cùngtrong đống chữ Nữ Chân này nói gì không?”
Tôi thầm nghĩ tụi này biết thế quái nào được, Diệp Thành đã tiếp lời: “Là gì?”
Hoa hòa thượng nhìn chúng tôi rồi bảo: “Trên này viết, Vạn Nô Vương của các triều đại đều không phải là người.”
“Không phải người thì là cái quái gì?” Bàn Tử thốt lên.
Hoa hòa thượng cất con cá đi: “Trên này viết, bọn họ đều là một loại quái vật từ dưới lòng đất bò ra!”
Không phải chứ, tôi nghĩ thầm. Mọi người nhìn nhau, xem chừng tronglòng đều đã hơi rờn rợn. Diệp Thành lại hỏi: “Cũng không thể nói như thế được, hay ý họ muốn ví hoàng đế với rồng, chứ không phải người phàm?”
“Tôi vốn cũng nghĩ người này chỉ muốn dùng lối ví von chân long thiên tử vậy thôi, nhưng sau này nghiên cứu thêm mới phát hiện người này khảnăng chỉ muốn ghi lại một vài bí mật, khách quan hơn so với ghi chéplịch sử của Đông Hạ, nên hẳn là sẽ không dùng ngôn ngữ cung kính vậyđâu. Hơn nữa, nếu sự thực đúng như lời anh nói thì hãy tưởng tượng màxem, giả sử anh chúc thọ hoàng đế mà vừa mào đầu đã nhả một câu: bệ hạ,ngài thật không phải người, chỉ e câu thứ hai chưa nói ra anh đã bị lôiđi lăng trì rồi. Làm gì có ai viết kì cục như vậy.” Ông ta cười khóhiểu: “Hơn nữa câu sau cùng viết cực kỳ rõ ràng, cực kỳ khiếm nhã, tôivẫn canh cánh trong lòng. Nếu ta tìm được những phần khác thì hẳn là sẽgiải mã được rốt cuộc những lời này có ý nghĩa gì.”
Bàn Tử và Muộn Du Bình đều biết kỳ thật hai con cá đồng còn lại hiệngiờ đang ở trong tay tôi, nhưng vì thận trọng nên bọn họ đều không lêntiếng. Tôi bóp chặt cá đồng trong túi áo, đột nhiên cảm thấy chúng trởnên nặng trĩu.
Nhất thời tôi cũng không biết mình có nên lấy hai con cá này rakhông. Thực ra hai con cá này đối với tôi cũng chẳng có ý nghĩa gì. Tôikhông đọc được chữ Nữ Chân, có xem cũng chẳng hiểu cóc khô gì sất.Nhhưng nếu giao cho bọn họ thì tôi lại thấy không ổn chút nào.
Phan Tử nhìn chằm chằm vào tấm bích họa, lẩm bẩm với chính mình rằngngười được cho là Vạn Nô vương trên bích họa kia trông cũng giống ngườichứ nào có vẻ gì là quái vật. Bàn Tử vỗ vỗ anh, nói với Hoa hòa thượng:“Anh Mặt Sẹo, tôi bảo này, anh giải mã cái quái gì, chúng ta là ngườithực dụng, đừng ra vẻ phần tử trí thức, đến lúc quan tài mở ra thì làngười hay chó khắc rõ ràng ngay thôi.”
Hoa hòa thượng cười cười lên tiếng: “Ý tôi là, biết người biết ta vẫn hơn.”
“Có điều, thằng vẽ bích họa không dưng lại vẽ mấy cái này ở đây làmquái gì nhỉ?” Bàn Tử hỏi: “Để nhắc mình khỏi quên nợ nước thù nhà à?”
Hoa hòa thượng lắc đầu, hiển nhiên cũng không hiểu rõ lắm. Tôi ngẫmnghĩ rồi nói: “Có khi là muốn hoàn thành bích họa ở đây rồi dỡ cả khốiđá xuống, còn không thì chắc là vẽ để giết thời gian thôi. Anh xem trong này ấm áp, có lẽ lúc đó thợ thuyền cũng vào đây nghỉ ngơi mà.”
Chẳng ai thèm tin tôi. Hoa hòa thượng bắt đầu chụp lại mấy thứ này để lưu lại làm tư liệu.
Chúng tôi nghỉ ngơi đã đủ, dần dần hồi phục tinh thần, bắt đầu cắtlượt nghỉ ngơi. Trần Bì A Tứ lại cử người của lão thay phiên ra canh bên ngoài, chừng nào tuyết ngừng rơi thì bò vào báo cho chúng tôi, cònchúng tôi bắt đầu thay phiên nhau ngủ.
Khi tôi tỉnh giấc thì Thuận Tử cũng vừa tỉnh lại, không ngừng xin lỗi chúng tôi. Bàn Tử không thèm quan tâm đến hắn, tôi lấy đồ cho hắn ăn,lại bảo anh cứ nghỉ ngơi cho khỏe, tôi còn phải nhờ anh tiếp tục dẫn lên mà.
Trong này không có mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng, cũngchẳng biết thời gian đã qua bao lâu, đại khái là chờ hai ba ngày thìtuyết rốt cuộc cũng ngừng rơi. Chúng tôi lục tục leo ra khỏi cái khe,bên ngoài đã trời quang mây tạnh, xung quanh là một thế giới bao latrắng xóa.
Sửa soạn lại trang bị mới phát hiện mấy ngày nay chúng tôi đã ăn quánhiều, đoán chừng nếu không có tiếp tế thì chưa đi đến đích đã cạn sạch lương thực. Hỏi Thuận Tử xem có cách nào không, hắn nói đã lên vùng núi phủ tuyết thì bó tay rồi, bằng không phải quay trở về, hoặc là phânphối đồ ăn ra, chịu khó nhịn bớt một chút.
Lúc ở trong khe nứt, Trần Bì A Tứ đã dạy chúng tôi rất nhiều mánh lới sử dụng trên núi tuyết, ví dụ như dùng băng vệ sinh làm lót giày có thể hút mồ hôi, giữ cho bàn chân khô ráo, toàn thân ấm áp. Chúng tôi làmtheo cách của lão, quả thật không tồi, có điều chính mình cũng thấychướng, cứ nghĩ nếu vào cổ mộ rồi vứt lại mấy thứ này trong đó, vài nămsau có đội khảo cổ đào ra, nhìn thấy cái của nợ này nằm chình ình bêncạnh quan tài thì không biết sẽ có vẻ mặt gì. *Êm vái cả nón trí tưởng tượng phong cmn phú của bạn Tà =))*
Chúng tôi dùng dây thừng leo lên sườn dốc mà mình đã ngã xuống, thấytrên mặt đất chi chít những dấu chân ngựa mới tinh. Bàn Tử ngồi thụpxuống xem xét rồi nói: “Đám người A Ninh kia xem ra đã vượt qua chúngta, giờ đang ở tít đằng trước rồi.”
Chúng tôi không nói thêm lời nào, đeo kính chắn gió rồi gấp rút lênđường. Hai giờ sau, trên một sườn núi, chúng tôi thấy đội của A Ninh.Bọn họ hiển nhiên cũng chịu tổn thất rất lớn, ba mươi người giờ chỉ còncó hai mươi, số ngựa cũng bị rút xuống một nửa, nhìn toét mắt cũng không thấy tăm hơi chú Ba tôi đâu.
Chúng tôi bắt đầu lẳng lặng ẩn nấp, quan sát bọn họ. Tôi thấy A Ninhnâng ống nhòm chăm chú nhìn về một phía, muốn trông theo hướng cô ả đang nhìn nên cũng nheo mắt lại.
Chỉ thấy ngoài xa, không biết là trong màn tuyết hay mây mù, đứngsừng sững một ngọn núi tuyết lớn, hợp thành một thể với những mạch núikhác, lại cao chót vót đên bất thường. Đó chính là ngọn núi tuyết tôitừng thấy trong ngôi mộ dưới đáy biến sâu, hình dáng của nó dường nhưkhông khác mấy so với trong hình vẽ.
“Đúng chỗ này rồi.” Tôi thầm nhủ trong lòng, chỉ vào ngọn núi kia,ngoảnh đầu lại hỏi Thuận Tử: “Kia là núi gì? Làm sao qua đó bây giờ?”
Thuận Tử đưa tay lên che nắng, vừa nhìn đã biến sắc: “Thì ra các anh muốn đến đấy à?! Chỗ kia không đi được đâu!”