Trường Canh thoạt đầu sửng sốt, lập tức vỗ mạnh trán mình, ảo não day ấn đường: “Ta… ôi… ta thật là…”
Y đứng bật dậy, hốt hoảng nói: “Để ta kêu nhà bếp làm cho ngươi món gì dễ tiêu hóa trước.”
Vương bá vội nói: “Vâng, lão nô đi ngay đây.”
Trường Canh đi một mạch đến cửa thư phòng, lại nhớ ra điều gì, sờ soạng người mình, lấy kính lưu ly quay lại trả Cố Quân, sợi dây kim loại và khung bên ngoài được y ủ ấm lên. Trường Canh cẩn thận lau sạch mảnh kính, gắn trên mũi Cố Quân, ánh mắt lưu luyến trên khuôn mặt ấy rất lâu, chợt thì thào: “Tử Hi, ta cảm thấy mình đang nằm mơ.”
Cố Quân bị y thần thần thao thao giày vò một buổi trưa, nghe lời ấy rất cáu, muốn đốp lại một câu “Tát ngươi một phát xem có đau không”.
Ai ngờ chưa kịp nói thì Trường Canh dừng chân quay người lại, cười khổ mà tự giễu: “Lớn thế này mà chưa từng có giấc mơ đẹp như vậy, đừng bao giờ tỉnh lại thì tốt rồi.”
Cố Quân: “…”
Y vừa bình thường lại, thì Cố Quân lập tức lại không nhẫn tâm mắng mỏ, cảm thấy thêm vài lần nữa thì nhất định mình phải thần thao theo, đành trưng ra dáng vẻ bình tĩnh hỉ nộ khó phân, xua tay đuổi y cút cho mau.
Đầu hạ năm Long An thứ tám, Cố đại soái liên tục phạm Thái Tuế, thế nhưng quốc vận Đại Lương lại phảng phất từ dưới đáy cốc bắt đầu chậm rãi khôi phục, như đợt rét đậm lê thê qua đi, dưới tuyết trắng vô biên bắt đầu lác đác nhú lên chồi non vậy.
Vào hạ, thoạt tiên An Định hầu mau chóng bình định loạn thuộc địa phương Tây, ký kết “Tân ước con đường tơ lụa”, Huyền Thiết doanh áp tải tử lưu kim Tây Vực tiến cống về kinh.
Đến lúc này, Đại Lương dưới tứ diện Sở ca, cuối cùng đã chọc thủng được một lối ra.
Đám người Thẩm Dịch vừa mới đến, Linh Xu viện lại truyền ra tin vui.
Đại thiết cung Cố Quân vẫn không thể phổ biến trong quân rốt cuộc có đột phá mới, Cát Thần nhân tài mới xuất thân đồ tể này quả nhiên kỳ tài ngút trời, thiết kế một loại hộp vàng hoàn toàn mới, cực nhẹ và tiện, có thể lắp trên cung, hoàn hảo để sức người cầm giữ được.
Thiết cung vốn không phải tuyệt đại cao thủ thì kéo không nổi giảm hơn một nửa sức nặng dây cung, hai tay người có thể bắn bạch hồng thiết tiễn mà chẳng tốn mấy sức, độ chính xác cực cao. Thiết tiễn rất nặng, không dễ bị cuồng phong ảnh hưởng, một khi số cung này được chế tạo quy mô lớn, bạch hồng từ đây sẽ tuyệt tích trong quân đội Đại Lương. Mà trong thiết tiễn kia còn có thể lắp thêm hệ thống hỏa cơ, thiết tiễn đặc biệt sau khi bắn ra có thể lần thứ hai gia tốc trên không, thậm chí có thể nổ tung giữa trận địa địch, uy lực cực mạnh.
Cuối tháng Sáu, trong tình huống Huyền Thiết doanh như hổ rình mồi và mâu thuẫn quốc nội Tây Dương dần dần hiện rõ, chiến cục của hai bên nam bắc đồng thời tạm bình ổn, Đại Lương được một cơ hội nghỉ ngơi, cả triều trên dưới đều biết, việc cấp bách lúc này chính là an lòng dân, đặc biệt phải thu xếp cho lưu dân do chiến họa lưu vong các nơi.
Nhưng nghỉ ngơi thế nào, thu xếp thế nào?
Bố trí lại điền sản cho những lưu dân này là tuyệt đối không làm được, chẳng thanh thiên đại lão gia nào có đạo đức cao đẹp nhường vậy, đưa đất nhà mình cho người ta chia.
Sở quân cơ tổ chức vài lần đại triều hội triệu tập quần thần thảo luận, thủy chung không ra kết quả, chỉ thu thập được cả đống chủ ý dở hơi, như tổ chức lưu dân đi khai hoang nọ kia, làm Hoàng đế Long An nổi trận lôi đình quở mắng đám triều thần ăn trên ngồi trốc: “Sao các ngươi không nói gom lưu dân lại đày đến Đông Hải noi theo Tinh Vệ đi?”
Đột nhiên, Sở quân cơ do Nhạn thân vương cầm đầu giữ im lặng, cũng không tỏ thái độ, lục bộ và quan viên các địa phương dâng tấu đùn đẩy nhau, đương đình cãi nhau om sòm, đúng lúc này, Đỗ Vạn Toàn dẫn mười ba cự cổ trời nam biển bắc ra mặt dâng sớ lên triều đình, bày tỏ họ muốn noi theo người Tây Dương, thiết lập nhà xưởng tư nhân ở các nơi, thu nhận lưu dân tứ phương đến làm việc.
Cứ thế, chẳng cần bao nhiêu đất, chút ít điền sản Trường Canh tịch thu được khi xử lý tham quan ô lại không an bài đàng hoàng lưu dân ở ven bờ kênh đào đã đủ dùng, họ còn định lấy khôi lỗi trồng trọt ở Giang Nam năm đó làm bản gốc, triệu tập một nhóm trường tý sư dân gian, cải tạo ra một loạt hỏa cơ dân dụng.
Phát hành đợt phong hỏa phiếu thứ hai, theo đó một thế lực như mạch nước ngầm dần dần tụ lại trong triều, khi họ còn ngủ đông, thoạt nhìn hoàn toàn không thành phe phái, giờ đây lại bất hiển sơn bất lộ thủy âm thầm bắt đầu thúc đẩy việc này: Thượng gián Hoàng đế Long An, cho những nghĩa thương dân gian đứng ra nhận mua phong hỏa phiếu sớm nhất vài đặc quyền, thí dụ như họ có thể trực tiếp dâng sớ tới Sở quân cơ, tấu thỉnh chính bản thân Hoàng đế đặc phê, sau đó cam đoan trong tình huống quân dụng, cho phép họ mỗi năm mua một mức tử lưu kim nhất định.
Bản tấu này do Công bộ trình lên đầu tiên, Công bộ Thượng thư Mạnh Giác là một sĩ tử hàn môn xuất thân hàn lâm, trong tấu viết: đây là kế một mũi tên giết ba con chim, vừa giải quyết lưu dân hỗn loạn các nơi, vừa thể hiện triều đình sẽ không bạc đãi người có công, ngân lượng từ việc bán tử lưu kim giá cao cho những cự cổ này còn có thể đưa vào quân nhu chiến bị.
Hòn đá này dấy lên ngàn tầng sóng, lần này, trong số trâm anh thế gia khứu giác nhạy bén, rốt cuộc có kẻ định thần lại.
Cố Quân đã lâu không vào triều may mắn bàng thính một lần đại triều hội là thịnh cảnh giương cung bạt kiếm như thế nào, nghe mà há hốc mồm, cảm thấy nơi đây còn nguy hiểm hơn cả trận địa tiền tuyến minh thương ám tiễn.
Một bản tấu của mười ba cự cổ, làm mâu thuẫn chất chứa nhiều đời giữa sĩ tộc và nhân tài hậu khởi hàn môn đột nhiên trở nên gay gắt, lúc này người có đầu óc đã phát giác giao dịch bí mất giữa nghiệp quan cấu kết, cũng có kẻ khứu giác nhạy bén, đã nhận thấy được thế lực mới trỗi dậy khó mà ngăn cản này tương lai sẽ lung lay gốc rễ sĩ tộc, một cảm giác nguy cơ khi mặt trời sắp lặn lặng lẽ sinh ra.
Trên triều đường, phái thân thương hội chỉ trích thế gia “kết bè kết đảng, hại nước hại dân”, “đứng nói chuyện không đau lưng”, thậm chí nổi trận lôi đình chỉ mũi đối phương mắng “ngươi có chủ ý, thì sắp xếp cho lưu dân đến quý trạch là được”.
Mấy đại thế gia đỏ mặt tía tai tranh luận “hạng thương nhân đâu thể đến nơi thanh nhã”, “tử lưu kim là quốc chi trọng khí, há có thể chảy vào tay tư nhân”, cuối cùng dứt khoát là “không biết các vị đại nhân nhận bao nhiêu hối lộ, mà thân như anh em với đám con buôn này”.
Sau đó một loạt tướng quân trong tình huống An Định hầu không lên tiếng đưa mắt nhìn nhau, cùng khoanh tay đứng ngoài cuộc, sau rốt là Sở quân cơ chạy ra hòa giải ba phải.
Cố Quân ngẩng đầu nhìn Hoàng đế Long An một cái, chỉ cảm thấy Lý Phong thật sự già rồi, chẳng qua ngoài ba mươi, mà tóc đã bạc, lệ khí sứt đầu mẻ trán, có một chớp mắt, Cố Quân bỗng nhiên nghĩ: “Nếu năm đó khi thành sắp phá, hắn bị một mũi tên lạc ghim trên hồng đầu diên, phải chăng ngược lại là việc tốt cho hắn?”
Lý Phong như nhận thấy điều gì, vừa vặn ngẩng đầu chạm phải tầm mắt Cố Quân.
Hôm nay sau khi tan triều, Cố Quân bị giữ lại trong cung. Hai người trước trận chiến trở mặt, sau đó mã bất đình đề đánh giặc khắp nơi, cơ hồ không còn cơ hội gặp riêng, lần này lại ở nơi cùng lớn lên tán gẫu vài chuyện phiếm lâu năm, cơ hồ như cách mấy đời. Lý Phong giữ Cố Quân lại thật sự là nhất thời kích động, tới khi cùng đi trong ngự hoa viên mới phát hiện chẳng có chuyện gì để nói, thực sự lúng túng.
Chính lúc này, Thái tử học xong đi qua, đến làm lễ vấn an.
Lý Phong không hề trầm mê hậu cung, con nối dõi không đông, Thái tử mới tròn tám, vẫn chưa bắt đầu phát triển vóc dáng, rất trẻ con, thấy Lý Phong thì hơi câu nệ, tiến lên chào theo quy củ: “Phụ hoàng.”
Lập tức lại cẩn thận nhìn Cố Quân một cái, hơi muốn bắt chuyện, nhưng không biết người này là ai.
Cố Quân thoáng nở nụ cười chào: “Thần Cố Quân, tham kiến Thái tử điện hạ.”
Thái tử lấy làm kinh hãi, các bé trai đều thích nghe chuyện về đại anh hùng, lúc này thấy người thật, một mặt kích động không thôi, một mặt còn phải miễn cưỡng duy trì uy nghi Thái tử trước phụ thân, khuôn mặt nhỏ xíu đỏ bừng, lắp bắp: “Cố, Cố tướng quân! Không… A… Hoàng thúc công không, không cần đa lễ… cô… ta còn từng tập theo nét chữ của hoàng thúc công đấy.”
Thần sắc Cố Quân hơi cổ quái: “… Điện hạ quá khách khí rồi.”
Ba chữ “hoàng thúc công” thọc cho y một nhát, khiến y cảm thấy mình đã mọc ra chòm râu dài hẳn hai thước.
Hôm đó Lý Phong cho tất cả lui hết, chỉ để Thái tử đi theo, chẳng ai biết hắn hàn huyên những gì với Cố Quân, cung nhân chỉ biết, tiểu Thái tử tựa hồ rất hợp với An Định hầu, quấn lấy y không chịu đi, cuối cùng ngủ gật trên vai Cố Quân, được An Định hầu tự mình đưa về đông cung.
Trước khi đi, Hoàng đế Long An đặc ý dặn dò Cố Quân, nếu rỗi rãi thì thường tiến cung chơi, cũng chỉ điểm Thái tử một chút.
Việc trước đó Hoàng thượng và An Định hầu trở mặt, quân chính ly tâm, tựa hồ chỉ là một đợt gợn sóng bị người ta cố gắng lãng quên.
Mà lúc này trong gian nhã của Vọng Nam lâu, Giang Sung vội vàng chạy đến, lấy một mật hàm trong tay áo ra đưa cho Trường Canh: “Vương gia, ngài xem cái này, chúng ta ở trong triều căn cơ chưa ổn, lần này có khả năng là hơi nóng vội rồi.”
Đó là một tấu chương bản dập, Giang Sung hạ giọng nói: “Từ đại nội tuồn ra, sau khi hạ triều, mấy đại thế gia thông qua Vương quốc cữu, liên danh trình tấu lên Hoàng thượng, chỉ sợ là ủ mưu đã lâu.”
Trường Canh thần sắc bất biến nhận lấy: “Vương quốc cữu? Bản thân lão đã lau khô mông rồi sao? Thời gian này chiến loạn tới tấp, Đàm tướng quân chết ở kinh thành, liền cảm thấy không ai truy cứu lão nữa?”
Giang Sung hạ giọng thấp hơn: “Vương gia, Vương quốc cữu là bên nhà mẹ thái hậu, chỉ cần không mưu phản, Hoàng thượng sẽ không động tới lão… Hơn nữa, ai dám nhắc lại việc năm đó? Nếu như lấy đây làm cớ lật đổ Vương quốc cữu, chẳng lẽ tiên đế sẽ không chịu tiếng hôn quân bị tiểu nhân yêu nữ làm mờ mắt, giết hại trung lương? Con không vạch tội cha, Hoàng thượng không thể vì việc này mà xử Vương Quả được.”
Trường Canh mặt không biểu cảm, chớp nhoáng xem hết bản tấu nọ, chợt “Ồ” một tiếng.
Giang Sung: “Sao thế?”
Trường Canh: “Cái này không giống lão bị thịt Vương Quả kia nghĩ ra được, là thủ bút của ai vậy?”
Giang Sung: “À, nói đến thì người này rất có uyên nguyên với Vương gia đấy, lúc trước không phải Phương gia còn có ý kết thân với Vương gia sao? Người ở sau lưng viết thay này chính là thúc thúc của Phương tiểu thư kia, đương triều Hộ bộ Thượng thư Phương Khâm, vốn là Trạng nguyên lang tiên đế khâm điểm năm Nguyên Hòa thứ mười tám, vị duy nhất đỗ liền tam nguyên của tiền triều, từ nhỏ tài danh trác tuyệt.” (Tam nguyên gồm Giải nguyên, Hội nguyên, Trạng nguyên)
Từ khi Phương Khâm tiếp chưởng Hộ bộ, sự vụ gọn gàng ngăn nắp, phối hợp thỏa đáng với Sở quân cơ, chưa bao giờ cản chân nhau, có thể nói là một năng thần. Đáng tiếc cái mông quyết định cái đầu, hắn sinh ra ở Phương gia, đại diện cho Phương gia, định trước là một vật cản cho tài danh.
“Bán triều tọa sư, phong đầu vô lượng.” Trường Canh gõ nhẹ mặt bàn, “Chim én nơi lầu họ Vương họ Tạ thuở trước, cũng nên bay vào nhà bách tính bình thường một chuyến rồi(1).”
Giang Sung nghe ra sát khí trong lời y nói, tim đập thót.
—Cựu thời Vương Tạ yến, phi nhập tầm thường bách tính gia là hai câu trong bài Ô Y hạng của Lưu Vũ Tích.