Y hơi dừng lại, nghiêng đầu thoáng nhìn cửa phòng Cố Quân đang đóng chặt, Trần Khinh Nhứ lập tức hồi hộp.
Sau đó Vương gia điện hạ với khuôn mặt quan tài chẳng chút rung rinh, thản nhiên thừa nhận: “Ta quả thật có ý đồ không tốt đối với nghĩa phụ.”
Trần Khinh Nhứ: “…”
Câu này… dùng ngữ khí thẳng thắn bình tĩnh như vậy nói ra, nghe thật đúng là quá vi diệu.
“Y cũng biết, xin Trần cô nương…”
Trần Khinh Nhứ vội vàng vô thức trả lời: “Ta sẽ không nói đâu!”
Trường Canh chắp tay, ngoại y khoác hờ trên người nhẹ bay, phong tư trác tuyệt đi lướt qua Trần Khinh Nhứ, như một tiên nhân phong lưu đạp nát trường không… Chẳng mảy may nhận ra bên trong bọc một con nhím.
Nếu như Cố Quân đời này cũng có lúc cảm kích Lý Phong, vậy chính là ngày hôm sau nghe nói Lý Phong giữ Trường Canh lại trong cung.
Thật sự cho y thở phào một hơi, chỉ hận không thể dâng tấu xin Hoàng thượng dựng một gian bên cạnh Tây noãn các cho Vương gia ở hẳn trong đó luôn đừng ra nữa.
Sa trường thương bệnh là chuyện thường, Cố Quân đã quen từ lâu, tỉnh lại chính là vượt qua giai đoạn hung hiểm nhất, nằm thêm một ngày thì y đã có sức nói chuyện tiếp khách.
Vị khách đầu tiên y tiếp chính là Thẩm Dịch.
Do Trần Khinh Nhứ không chịu cho Cố Quân uống thuốc, y chỉ có thể vừa điếc vừa mù mà đeo kính lưu ly, cùng họ Thẩm tiến hành cuộc trao đổi gồm cả hai cách gào thét và ra dấu.
Hai người xa cách hơn nửa năm, gặp lại lần nữa có phần cảnh còn người mất – khi tống biệt góc biển chân trời hãy còn hăng hái, mà khi trở về một kẻ băng kín như xác ướp nằm trên giường, hận không thể hít vào mà không thở ra, một kẻ bôn ba mấy tháng, phí hoài như trồng huyền sâm ở nông thôn Giang Nam vậy.
Thẩm Dịch sụt sùi gào lên với Cố Quân: “Bọn ta đều cho là chỉ kịp nhặt xác cho ngươi, không ngờ còn có thể gặp lại một kẻ biết thở. Đại soái, ngươi đại nạn không chết, tất có hậu phúc!”
Cố Quân bị y “sụt sùi” văng đầy nước bọt vào mặt, tức khắc ngứa hết cả mắt, không thấy “hậu phúc” ở đâu, “hậu hối” trái lại cả sọt, lập tức nổi giận nói: “Ngươi còn mặt mũi mà nói, con mẹ nó bọn mũi lõ đổ bộ cảng Đại Cô hơn một tháng, đốt hành cung Tây giao như bếp lò, phế vật ngươi đi đâu mất dạng hả? Ăn cứt cũng chẳng kịp nóng!”
Thẩm Dịch: “…”
Cố Quân: “Tránh ra, tránh xa ta ra, miệng ngươi mẻ hả? Phun đầy mặt ta rồi!”
“Việc này ta vốn không định nói tới, sợ ngươi khó chịu,” Thẩm Dịch thở dài, xắn tay áo, không khách khí phịch mông ngay bên cạnh Cố Quân, “Lúc ấy ta căn bản không gặp sứ đến hủy lệnh kích trống của Binh bộ, sứ vừa ra khỏi kinh thành đã bị tiệt, đám tiểu quốc Nam Dương như cứt dê kia thừa nước đục thả câu, không biết làm sao mò được mật đạo bọn sơn phỉ để lại, trong một đêm như từ trên trời giáng xuống, ta không kịp đề phòng, để họ nổ bay kho quân nhu Tây Nam.”
Mà không có lệnh kích trống, Thẩm Dịch Thống soái mới tới này căn bản không điều động được trú quân Nam Cương.
“Ta bên đó sứt đầu mẻ trán, quả thực là ấn hồ lô xuống thì gáo lại nổi, Tiểu Cát vừa vặn đi tìm ta, còn mang đến tờ giấy của tiểu điện hạ – lúc ấy ta vừa xem liền cảm thấy hỏng bét rồi, đáng tiếc chẳng cách nào phân thân.” Thẩm Dịch lắc đầu, “Sau đó chim gỗ còn đưa tới Huyền Thiết hổ phù và phong hỏa lệnh ngươi đích thân ký phát, tuy rằng ta không biết kinh thành lại sẽ bị vây khốn đến tình trạng này, vẫn miễn cưỡng phân ra một nửa binh lực và tử lưu kim tồn kho, đích thân dẫn người về kinh.”
Lời còn lại y không cần nói tỉ mỉ, Cố Quân nghe thế cũng hiểu rồi, vấn đề xảy ra trên tử lưu kim.
Tây Bắc bị hổ lang quấy nhiễu, Huyền Thiết doanh và Bắc thành phòng đều không dám di chuyển, nếu không thủ được cương thổ hay chăng còn là thứ yếu, chưa biết chừng sẽ bị người ta đuổi theo vây đánh, đến lúc ấy vòng vây kinh thành sẽ thật sự là Nam có hải quân Tây Dương, Bắc có thiết giáp Lang bộ.
Mà bên phía Thẩm Dịch binh họa còn giải được, phiền toái chính là kho quân nhu Tây Nam bị nổ hủy, tử lưu kim tồn kho của trú quân Nam Cương vốn đã rất có hạn, còn lại chút ít căn bản chẳng đủ sức chạy đường dài.
“Ta chỉ đành lên phương Bắc tìm Thái Phân đòi tiền trước.” Thẩm Dịch thở dài nói, “Ai biết được trên đường năm lần bảy lượt bị cản trở, ngươi có biết quấn chặt trú quân Trung Nguyên là ai không?”
Thần sắc Cố Quân hơi trầm xuống.
“Là quân khởi nghĩa do lưu dân tạo thành.” Thẩm Dịch thở dài, “Binh lực của Lão Thái bị Huyền Thiết doanh và Bắc thành phòng chia quá nửa, còn một ít ở lại Trung Nguyên, mỗi ngày sứt đầu mẻ trán đấu với đám người đó, vốn đều là một số lão bách tính đi không nổi, đánh không được, không đánh cũng không xong, Lão Thái rầu đến bạc cả tóc.”
Cố Quân dựa đầu giường im lặng chốc lát: “Sao lại loạn đến nông nỗi này?”
“Từ Trung Nguyên về Nam tới Thục Trung lưu dân không nghề ngỗng thành họa đã nhiều năm, vẫn chẳng nên trò trống,” Thẩm Dịch nói, “Lần này là có kẻ nhân loạn đục nước béo cò, xúi giục lưu dân hình thành vài lực lượng, thấy thế đạo sắp loạn, Huyền Thiết doanh cũng có thể một đêm mất một nửa, lá gan cũng lớn hẳn, liền… Kỳ thực ngươi biết không Tử Hi, mấy năm nay ta vẫn cảm thấy Huyền Thiết doanh tiếng tăm lẫy lừng quá không phải chuyện tốt, bị trên kiêng kị là một mặt, truyền thuyết dân gian cũng quá nhiều, mấy năm trước quả thật có thể uy hiếp vài kẻ có ý đồ, song một khi Huyền Thiết doanh xảy ra chuyện, dù chỉ là gió thổi cỏ lay, cũng quá dễ dao động quân tâm và dân tâm.”
Hai người im lặng nhìn nhau chốc lát, Cố Quân: “Đừng nói nhảm nữa, hiện tại thế nào? Các huynh đệ Bắc đại doanh còn lại mấy người?”
Thẩm Dịch hơi thay đổi sắc mặt, nhất thời không tiếp lời.
Vừa thấy biểu cảm của y, trong lòng Cố Quân liền lạnh một nửa: “Lão Đàm đâu?”
Thẩm Dịch cho tay vào lòng, tháo một thanh cát phong nhận bên dưới khinh giáp, im lặng đặt bên gối Cố Quân.
Cố Quân ngây ra giây lát, không kịp đề phòng đụng vào một vết thương, cắn răng không lên tiếng, đau đến mức phải im lặng cuộn tròn mình lại.
Thẩm Dịch vội đưa tay đỡ y: “Đừng, Tử Hi… Tử Hi!”
Cố Quân hất ra, khàn khàn nói: “Người Tây Dương rút lui đến nơi nào rồi?”
Thẩm Dịch dè dặt nhìn trộm thần sắc y: “Người Tây Dương sau khi đại phá thủy quân Giang Nam chia binh làm hai lộ, một lộ do Giáo hoàng đích thân dẫn dắt, từ cảng Đại Cô lên bờ bức thẳng kinh thành, một lộ nhân mã khác chủ yếu là tử sĩ Đông Doanh họ bỏ tiền thuê, dùng trọng giáp chiến xa ven theo kênh đào tiến về phía Bắc, qua hai phủ Sơn Đông Trực Lệ, trú quân địa phương chưa từng gặp trận thế như vậy, lập tức bị đánh tan tác, trên đường bọn ta đã giao thủ một lần với họ, quả thật khó chơi. Sau đó Chung Thiền lão tướng quân lộ diện ở Giang Nam, giúp đỡ Diêu Trọng Trạch trùng chỉnh thủy lộ quân Giang Nam rải rác, tập hợp tàn quân lên miền Bắc, giúp chúng ta một phen, đám người ấy mới đành phải nhường đường lui tới cảnh nội Sơn Đông – hiện tại hai lộ quân Tây Dương hợp làm một, lui về trên biển, đóng ở chư đảo Đông Doanh, chỉ sợ vẫn chưa thôi.”
Cố Quân “À” một tiếng, đôi mày cau chặt.
Thẩm Dịch vừa nãy la hét đến khô cả miệng với lưỡi, tự rót trà lạnh nốc ừng ực, thở dài nói: “Đừng nghĩ nhiều nữa, ngươi dưỡng thương cho khỏi trước mới là chuyện đúng đắn, hiện tại không có ngươi là không được đâu.”
Cố Quân nhắm hờ mắt không lên tiếng.
Để làm dịu bầu không khí, Thẩm Dịch nói sang chuyện khác: “Tiểu điện hạ nhà ngươi thật y như thoát thai hoán cốt vậy, ban đầu bất hiển sơn bất lộ thủy, khi nguy nan lại dám đứng ra gánh vác việc lớn, ta cũng sắp nhận không ra rồi… Hoàng thượng đã lấy chữ ‘bắc’ trong ‘Nhạn Bắc vương’ của y rồi, ngươi biết chưa?”
Nhạn Bắc vương đến Nhạn vương – tuy chỉ khác một chữ, quả thật từ Quận vương lên Thân vương rồi.
Cố Quân định thần lại, mệt mỏi làu bàu: “Nào phải chuyện gì tốt…”
Để cho y vui, Thẩm Dịch lại đi nói chuyện chẳng nên nói: “Trên đường ta nhìn thấy y với Trọng Trạch từ trong cung đi ra, chắc bây giờ cũng sắp về đến nhà rồi.”
Cố Quân: “…”
Thẩm Dịch thấy mặt y tự dưng đen như cái đít nồi, ngạc nhiên hỏi: “Lại sao vậy?”
Cố Quân nằm đến mỏi nhừ toàn thân, muốn đổi tư thế, nhưng hành động bất tiện, lão mụ tử họ Thẩm đặc biệt có nhãn lực, thấy y khó khăn ngọ ngoạy ở đầu giường, không biết đến giúp thì chớ, còn ở đó lải nhải hỏi: “Mấy hôm trước lúc ngươi chơi cờ với Diêm vương lão nhân gia, tiểu điện hạ không màng thương thế của bản thân, từ sáng đến tối không ngủ không nghỉ trông chừng ngươi, trên người còn cắm chi chít châm, cổ cũng không cong được, chúng ta đều cảm thấy không đành lòng, ta nói này Tử Hi, thật sự là so với con ruột còn…”
Cố Quân hết nhịn nổi cáu lên: “Ruột con bà ngươi, đâu ra lắm lời nhảm nhí vậy, mau cút đi!”
Thẩm Dịch chẳng những không sợ, ngược lại còn hếch mũi sấn tới hỏi: “Sao thế, ngươi lại làm chuyện gì khốn nạn đắc tội người ta rồi? Ta bảo này Tử Hi, Thân vương điện hạ không còn là đứa trẻ bị ngươi tùy tiện bóp nặn trước kia nữa, ngươi sắp…”
Cố Quân rên khẽ một tiếng: “Quý Bình huynh, nể ta suýt nữa vì nước hy sinh thân mình, van ngươi, xéo đi!”
Thẩm Dịch nhạy bén nhìn thấy bốn chữ “nỗi niềm khó nói” trên mặt y.
Thẩm tướng quân nhiều năm qua bị Cố Quân ức hiếp, đánh không thắng nói không lại, thù hận tồn tại đã lâu, vất vả lắm mới đợi được trò hề của y để hóng hớt, còn khuya mới chịu từ bỏ ý đồ, tò mò muốn chết: “Nhanh lên, ngươi xem hiện tại cả triều sầu vân thảm đạm, chúng ta cũng nói chuyện xui xẻo của ngươi cho vui đi…”
Cố Quân: “…”
Thế là trong nhà không còn âm thanh gì nữa, hai kẻ vốn gào lên với nhau đổi thành trò chuyện bằng thủ ngữ.
Sau một nén nhang, Thẩm Dịch vẻ mặt như bị sét đánh từ trong phòng Cố Quân “bay” ra, cùng tay cùng chân.
Nhắc Tào Tháo là Tào Tháo đến, vừa vặn lúc này Nhạn vương điện hạ về tới, đụng mặt Thẩm Dịch.
Trường Canh chào hỏi: “Thẩm tướng quân đến rồi à, nghĩa phụ ta bây giờ thế nào?”
Thẩm Dịch: “…”
Thẩm tướng quân Đề đốc Tây Nam đối mặt với Trường Canh, thần sắc thay đổi xoành xoạch, cuối cùng rắm cũng chẳng đánh được phát nào, mặt nom như gặp quỷ nép tường chạy mất tăm.