Tôi gật gật đầu, lội theo sau hắn. Điđược vài bước, đột nhiên phía trước xuất hiện mấy bóng đen, không biếtlà thứ gì, Bàn Tử tất nhiên đã thấy từ trước nên không hề sợ hãi, dặntôi đừng có chạm vào. Đi qua quãng đó rồi, tôi thoáng nhìn lại, thì ralà bốn con khỉ đá cao hơn nửa người ngồi trên bệ đá, mặt quay bốn phía,không biết đang cầu nguyện cái gì. Tôi biết đây gọi là Định hải thạchhầu, thường đặt dưới ao, dùng để trừ tà, thứ này xuất hiện ở đây cũng là chuyện thường.
Tôi yên tâm đi thêm vài bước, chỉ thấy ởgiữa bốn con khỉ đá đặt một tấm bia đá Thanh cương cao tới hai mét. Muộn Du Bình đang chiếu đèn pin vào tấm bia, cẩn thận quan sát.
Tôi lại gần, hỏi hắn: “Thế nào, anh xem qua mấy thứ này rồi, có nhớ thêm được gì nữa không?”
Hắn chỉ chỉ tảng đá phía trước tấm bia,tôi nhìn theo, thấy bên trên có khắc mấy hàng chữ Khải nhỏ, Bàn Tử không đọc được mới quay sang hỏi tôi trên đó viết gì, tôi đáp: “Mấy hàng chữkia cho chúng ta biết chủ nhân ngôi mộ này có xây dựng một Thiên cung,cánh cửa dẫn đến Thiên cung nằm ngay trong tấm bia đá này, nếu gặp người có duyên cánh cửa này sẽ mở ra, anh đi qua đó là lên đến trời.”
Bàn Tử nhìn tấm bia đá, sốt ruột: “Có cái cửa khỉ gió nào đâu.”
Tôi đáp: “Những lời này cũng giống nhưkinh Phật, mỗi người đều có cách lý giải khác nhau, ý ông ta cũng khôngphải là trong tấm bia này thực sự có một cánh cửa, mà có thể là nội dung khắc trên bia đá ẩn chứa bí mật nào đó.”
Bàn Tử đáp lại tôi: “Mẹ nó, cậu nói trên tấm bia này có ‘nội dung’ ấy hả, đến một chữ tôi còn chẳng đọc nổi!”
Tôi ngẩng đầu nhìn lên thì thấy mặt ngoài tấm bia được mài đến nhẵn bóng, trông như một khối ngọc, nhưng bên trên lại trống trơn chẳng có chữ nào. Tôi cũng bắt đầu phát bực: “Trong nàynói có duyên thì cửa mới mở, anh không có duyên với Thiên cung, đươngnhiên không thấy gì rồi.”
Bàn Tử trề môi, thở dài rồi cúi ngườixuống kiểm tra phần chìm dưới nước, vừa mò mẫm vừa lẩm bẩm: “Không códuyên phận với Thiên cung cũng chẳng sao, tôi chỉ cần có duyên có phậnvới minh khí là được rồi.”
Tôi quay sang Muộn Du Bình, sắc mặt củahắn trông rất tệ, tôi hỏi vài câu hắn cũng chẳng thèm để ý, chỉ nhìnchằm chằm vào tấm bia giống như đang tìm kiếm thứ gì đó. Tôi cảm thấy kỳ lạ, chẳng qua chỉ là một tấm bia trống trơn mà thôi, không biết hắn tập trung nhìn vào cái gì nữa. Bỗng Bàn Tử vỗ vỗ tay, tôi nhìn sang thìthấy hắn vớt lên một cái kính lặn, nói: “Xem ra đã có nhiều người tớiđây.”
Tôi qua bên đó nói với hắn: “Lúc chú Batôi thoát ra ngoài, trên người không có thiết bị lặn, mấy cái này có thể là của ông ấy. Anh xem thử có bình dưỡng khí không.”
Lời vừa dứt, Bàn Tử đã lôi từ dưới nướclên một cái bình khí móp méo, hắn dùng thử, dường như không được lại ném xuống nước, hậm hực nói: “Mấy thứ dưới này đều hỏng hết cả, uổng côngtôi từ tuốt trên đó chạy xuống, hóa ra là mừng hụt. Tôi thấy chúng tanên nhanh chóng đi lên thôi, ai biết được khi nào nước lại dâng lên, đợi đến lúc đó có bay cũng chẳng kịp.”
Tôi xem mực nước, thấy Bàn Tử nói cũng có lý, mới quay về chỗ cũ tìm Muộn Du Bình. Nào ngờ ngoảnh đi ngoảnh lạiđã không thấy hắn đâu, tôi thử gọi vài tiếng nhưng không có ai trả lời,lòng bỗng dưng trở nên hồi hộp.
Tên nhóc này cứ thoắt ẩn thoắt hiện như ma quỷ, lúc cần thiết như bây giờ lại chẳng thấy hắn đâu.
Nghĩ đến đấy, tôi bảo Bàn Tử cứ đi tìmquanh, bởi lẽ sương mù tuy dày nhưng nơi này cũng không quá rộng. Chúngtôi đi hai vòng, cuối cùng phát hiện hắn đang ngồi trong một góc tườngao ngơ ngác nhìn về phía trước. Tôi thấy ánh mắt hắn có gì đó bấtthường, gần như đã mất đi sự trầm tĩnh vốn có, chỉ còn chất chứa nỗituyệt vọng đến trống rỗng; thoạt nhìn trông hắn giống như một người đãchết.
Tôi vội hỏi chuyện gì đã xảy ra. Hắnngẩng lên nhìn tôi, giọng hắn nhỏ đến mức gần như không thể nghe thấy:“Chuyện hai mươi năm trước, tôi nhớ ra rồi…”