Tôn Hành Giả thấy càng thêm giận, hai tay nhập một cầm thiết bảng đập đùa, bảy con tinh cái trật áo ra, đưa bụng trắng nõn, làm phép chỉ tơ trong rún bay ra, làm như mui ghe bịt bùng, chụp Hành Giả ở dưới.
Tôn Hành Giả thấy việc không xuôi, liền cân đẩu vân nhảy đứng trên mây thở hổn hển, ngó xuống thấy chỉ tơ giăng trắng dã, bao phủ quán Huỳnh hoa, kinh hãi nói rằng:
– Dữ thiệt, dữ thiệt! Hèn chi Bát Giới bị vấp tơ mà té u đầu! Phải mình không chạy cho mau, thì cũng bị như vậy! Nay thầy và hai em đều bị thuốc độc, không lẽ mình bỏ mà đi. Vả lại chẳng biết cốt nó là giống gì thành tinh, thế này phải truy nguyên mới cứu đặng.
Nói rồi niệm chú thâu Thổ Ðịa đến hỏi rằng:
– Bảy con tinh cái cốt nó là chi, mà hóa tơ như lưới?.
Thổ Ðịa thưa rằng:
– Như chúng nó tới đây gần mười năm, mà năm kia tôi mới thấy nó hiện nguyên hình một lần là bảy con Trì tru tinh, là con nhền nhện, nó hóa gián nhện ra dây tơ đó.
Tôn Hành Giả mừng rằng:
– Như vậy thì dễ trị lắm, thôi ngươi lui về mà nghỉ.
Thổ Ðịa lạy rồi biến đi.
Còn Tôn Hành Giả liền đến am Huỳnh hoa, nhổ lông đuôi hơn bảy chục sợi, biến ra một bầy khỉ, tay đều cầm những nạng hai, ra hiệu lịnh cho bầy khỉ, đồng hè xốc nạng vào dây tơ và vặn xa kéo ra một lượt, mỗi con khỉ kéo dây tơ ra hơn mười mấy cân, bảy con nhền nhện dính theo tơ lớn gần bằng cái mủng.
Bảy con Trì tru tinh đều cóng cẳng rút cổ, năn nỉ xin tha.
Tôn Hành Giả nói:
– Các ngươi trả thầy cho ta, thì khỏi chết.
Bảy con Trì tru tinh kêu lớn rằng:
– Sư huynh ôi! Xin trả Ðường Tăng mà cứu mạng các em kẻo tội nghiệp.
Ðạo sĩ ló cổ ra nói rằng:
– Em ôi! Anh muốn ăn thịt Ðường Tăng, thiệt cứu các em chẳng đặng.
Bất nhơn tại Ðạo sĩ, chẳng trách Ngộ Không như vậy cũng hay, nếu tha bảy mạng đó, thì ngày sau bao mạng người nhiều lắm.
Tôn Hành Giả nổi giận nói lớn rằng:
– Không trả thầy ta lại, thì coi các em ngươi ra thể nào?.
Nói rồi đập bảy con nhền nhện như dần chả! Rồi giún mình thâu lông lại, rượt Ðạo sĩ mà đập, đạo sĩ rút gươm cự chiến, sáu mươi hiệp đạo sĩ đuối tay liền mở dây nịt, trật áo ra hóa hình cao lớn, nghe trong mình bực lên một tiếng, giở hai cánh tay lên, hai bên hông hiện cả ngàn con mắt, chiếu muôn đạo hào quang, chụp Hành Giả như úp trong cái chậu!
Tôn Hành Giả không thấy đường đi đà khó bề lui tới, Tôn Hành Giả cân đẩu vân nhảy lên bị hào quang đụng đầu, đau nhức như bửa, té nhào xuống đường thể trồng chuối ngược, kinh hãi than rằng:
– Xui quá, xui quá! Cái đầu này bây giờ hết cứng rồi! Bấy lâu bị trời đánh, búa bửa cũng không núng, cớ gì nay đụng hào quang nầy mà xiều đi.
Vừa nói vừa vò đầu, thiệt đã mềm mụp, Tôn Hành Giả nghĩ rằng:
– Xung quanh cũng bị hào quang bao phủ chắc cứng, chi bằng lủi xuống đất thì xong hơn.
Liền niệm chú dun mình hóa ra con trúc, mài riết xuống đất mà trốn đi, được ít dặm ló đầu lên, cũng còn đụng hào quang cứng ngắt, lủi hơn hai mươi dặm nữa, ló đầu mới khỏi hào quang. Ấy là tại hào quang dài lắm, hơn mười mấy dặm đường.
Khi ấy Tôn Hành Giả trồi lên hiện nguyên hình, đã mỏi mệt và đau mình hết sức, nghĩ tới thầy bị thuốc độc, động lòng rơi lụy thở than.
Xảy nghe tiếng khóc kể bên núi, Tôn Hành Giả đi lần đến ngó thấy một người đờn bà để chế, tay trái bưng mâm cơm, tay mặt cầm ít tờ giấy tiền vàng bạc và đi và khóc và than.
Tôn Hành Giả xem thấy lắc đầu chắc lưỡi than rằng:
Người đứt ruột gặp người ruột đứt,
Mắt rơi châu nhìn mắt châu rơi.
– Ðể ta hỏi thăm người ấy khóc việc chi cho biết.
Nghĩ rồi bước tới bái và hỏi rằng:
– Chẳng hay thiếm khóc chuyện chi?.
Người đàn bà ấy lau nước mắt nói rằng:
– Chồng tôi đi mua tre của đạo sĩ ở am Huỳnh hoa, cãi lẫy nhiều tiếng, đạo sĩ cho uống nước tra, gia độc dược đến nổi bỏ mình, nên tôi đem cơm canh đến mộ mà cúng và đốt giấy tiền vàng bạc gọi là chút nghĩa vợ chồng.
Tôn Hành Giả nghe nói động lòng sa nước mắt.
Nàng ấy làm mặt giận nói rằng:
– Thiệt ngươi không biết điều quá, ta rầu chồng mà khóc, sao ngươi lại nhái mà cợt ta?.
Tôn Hành Giả nói:
– Xin thiếm bớt giận, để tôi cắt nghĩa cho rành: Tôi là học trò lớn của Ðường Tăng, ở Ðông đô đi thỉnh kinh cho Thiên tử, thầy trò ghé nghỉ tại am Huỳnh hoa, bị đạo sĩ thuốc nước trà, thầy tôi và hai sư đệ đều gần chết, có một mình tôi không uống nước trà nên khỏi thuốc độc, tôi đánh với nó nửa ngày, nó cổi áo hiện con mắt vô số theo hai bên sườn, hào quang ra bao phủ, tôi biến hóa mới trốn ra khỏi. Nay nghe thiếm thuật chuyện, tôi mủi lòng rơi lụy, vì chồng thiếm và thầy tôi cũng bị thuốc độc, mà thiếm còn cúng tế đền ơn, tôi không biết lấy chi đáp nghĩa thầy, nên tủi thầm chớ không phải có lòng diễu cợt.
Nàng ấy bái và nói rằng:
– Xin thầy miễn chấp, vì tôi không ngờ sự khốn nạn như vậy. Nguyên đạo sĩ ấy hiệu là Bá nhãn ma quan, tên tộc là Ða mục Quái. Thầy cũng thần thông mới biến hóa ra khỏi hào quang ấy, song chắc cự không lại Bá nhãn ma quan, để tôi điềm chỉ một vị thánh hiền trị đặng hào quang của Ða mục Quái.
Tôn Hành Giả nghe nói mầng quá, liền bái mà hỏi rằng:
– Xin thiếm làm ơn chỉ giúp.
Nàng ấy nói:
– Tôi chỉ giùm trừ nó mà báo cừu, chớ cứu tôn sư cũng không kịp.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Vì cớ nào vậy?.
Nàng ấy nói:
– Thuốc ấy mạnh dữ lắm, nội trong ba bữa thì mục xương. Nay thầy đi thỉnh thánh hiền về đến thì trễ rồi, e quá kỳ cứu không đặng.
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi có tài đi mau thứ nhứt dầu bao xa đi nội nửa ngày.
Nàng ấy nói:
– Ðặng như vậy thì tôi chỉ giùm cho, hoặc may cứu tôn sư khỏi thác, đây đến núi tử vân xa hơn ngàn dặm, trong núi ấy có động Thiên hoa, bà Tì Lam là chủ động ấy, trừ đặng Thiên nhãn ma quan.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Bà ấy ở phía nào?.
Nàng ấy chỉ và nói rằng:
– Ði ngay hướng Nam đó.
Tôn Hành Giả ngó lại không thấy nàng ấy, ngó lên mây thấy Lê Sơn thánh mẫu đương đằng vân.
Tôn Hành Giả đằng vân theo, bái tạ ơn và hỏi rằng:
– Chẳng hay Thánh mẫu ở đâu đến đây, mà chỉ đường mách bảo?.
Lê Sơn Thánh mẫu đáp rằng:
– Ta đi phó hội Long hoa bên Ðông hải mới về đến đây, biết Ðường Tăng có nạn nên chỉ giùm, như Ðại Thánh đi thỉnh, đừng nói ta chỉ đường, vì bà Tì Lam hay trách lắm.
Tôn Hành Giả tạ từ, bay qua núi Tử vân, tìm vào động Thiên hoa, không thấy ai thấp thoáng. Tôn Hành Giả hồ nghi bà ấy đi khỏi, mới lần tới sau vườn, thấy một bà già ngồi trên chỏng. Tôn Hành Giả bái và thưa rằng:
– Kính mừng bà Tì Lam Bồ tát.
Bà Tì Lam bước xuống chỏng đáp lễ hỏi rằng:
– Ðại Thánh ở đâu đến đây?.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Sao mà biết tôi?.
Bà Tì Lam nói:
– Năm trước Ðại Thánh làm phản thiên cung, ai nấy đều nghe tiếng biết hình hết thảy.
Tôn Hành Giả nói:
– Nay tôi thọ giáo theo phép Phật, chắc Bồ Tát không hay.
Bà Tì Lam hỏi:
– Ðại Thánh quy y hồi nào? Ta mừng giùm cho đó.
Tôn Hành Giả nói:
– Nay tôi bảo hộ Ðường Tăng sư phụ đi thỉnh kinh Tây Phương, ghé am Huỳnh hoa, bị đạo sĩ thuốc trà độc dược, thầy tôi và hai sư đệ gần miền, tôi đánh với nó bị hào quang vây mình, tôi biến hóa ra khỏi. Nghe đồn Bồ Tát trị hào quang đặng, nên tôi tìm đến khẩn cầu.
Tì Lam nói:
– Ta từ ngày đi phó hội Ngư lam bên Quan Âm, thì đã ẩn mình nơi vườn hoa không ai gặp mặt, chẳng hay người nào biết chỗ mà chỉ rành?.
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi là con quỷ thông thương, ai ở ẩn chỗ nào cũng kiếm đặng.
Tì Lam nói:
– Thiệt ta không muốn đi, song vị tình Ðại Thánh khẩn cầu, không lẽ chẳng giúp việc thỉnh kinh mà từ chối! Thôi thôi, ta rán giúp Ðại Thánh một phen.
Tôn Hành Giả tạ ơn rằng:
– Tôi rất cảm đức Bồ tát, song chưa rõ đem những binh khí chi?.
Tì Lam nói:
– Ta có cây kim thêu, nên trị nó đặng.
Tôn Hành Giả nói:
– Những kim thêu, Bồ Tát muốn dùng một gánh mà trị nó, Lão Tôn cũng chịu dưng; vì vật ấy có sẳn.
Tì Lam nói:
– Ðại Thánh làm sao mà có kim thêu nhiều vậy! Nếu là kim đồng, kim sắt, kim vàng đều trị nó không đặng. Bửu bối của ta không phải loại kim, ấy của con ta luyện trong mặt nhựt.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Lịnh lang là ai?.
Tì Lam nói:
– Con ta là Mão nhựt tinh.
Tôn Hành Giả nghe nói càng sợ lắm.
Bay một lát gần tới am Huỳnh hoa, thấy hào quang sáng giới, Tôn Hành Giả chỉ và nói rằng:
– Chỗ hào quang đó là am Huỳnh hoa.
Tì Lam lấy cây kim trong bâu áo, coi nhỏ như sợi lông mày, dài chừng năm sáu phân mộc. Cầm kim ấy phóng lên thinh không nghe nổ vang một tiếng, hào quang biến mất.
Tôn Hành Giả mừng rỡ khen rằng:
– Hay lắm hay lắm, kiếm kim kiếm kim.
Tì Lam đưa kim ra nói rằng:
– Ta đã thâu nó lại rồi, óc mất đâu mà kiếm.
Tôn Hành Giả xông vào am, thấy đạo sĩ nhắm mắt như đui đứng trơ như chết.
Tôn Hành Giả mắng rằng:
– Con tinh nầy làm bộ đui với ai?.
Hỏi rồi lấy thiết bảng muốn đập.
Tì Lam can rằng:
– Ðại Thánh đừng đánh nó hãy vào xem sư phụ ra thể nào?.
Tôn Hành Giả y lời, vào am thấy ba thầy trò nằm dưới đất, sôi đàm cả vũng.
Tôn Hành Giả khóc rằng:
– Thế này đã chết cứng rồi, cứu làm sao cho đặng.
Tì Lam vừa tới nói rằng:
– Ðại Thánh đừng phiền muộn làm chi! Ngày nay ta đến đây, đã làm ơn phải làm cho trót. Ðại Thánh hãy đem ba huờn thuốc giải độc này bỏ vào miệng ba thầy trò, tức thì sống lại.
Tôn Hành Giả lấy ba viên thuốc cạy răng ba thầy trò bỏ thuốc vào.
Giây phút thuốc tan thấm vào bụng, ba thầy trò tỉnh lần, ói mửa hết độc dược.
Bát Giới lồm cồm chờ dậy nói rằng:
– Nó làm tợ như buồn chết!.
Tam Tạng, Sa Tăng đồng tỉnh dậy nói rằng:
– Nãy giờ chóng mặt quá, ngỡ là chết rồi!.
Tôn Hành Giả nói:
– Thầy với hai em bị uống trà độc dược, nếu không nhờ bà Tì Lam Bồ Tát cho thuốc giải, thì đã chết thiệt rồi, mau mau đi tạ ơn Bồ tát.
Ba thầy trò y lời lạy tạ. Bát Giới hỏi:
– Sư huynh, đạo sĩ ấy bây giờ nó ở đâu? Xin chỉ cho tôi, đặng tôi hỏi nó một lời, vì cớ nào mà nó thuốc hết ba mạng.
Tôn Hành Giả thuật chuyện lại. Rồi chỉ và nói rằng:
– Nó làm bộ đui, đương đứng ngoài kia dụi con mắt đó.
Bát Giới xách đinh ba xốc ra.
Tì Lam cản lại nói rằng:
– Ta xin tội cho nó.
Bát Giới nói:
– Nó anh em với bảy con nhền nhện thì cũng là yêu quái, còn dung nó làm chi?.
Tì Lam nói:
– Thiên Bồng bớt giận, Ðại Thánh đã biết trong động ta không có ai, để bắt nó về giữ cửa.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Chúng tôi đội ơn Bồ Tát rất nhiều, lẽ nào dám cãi lịnh. Song bà bảo nó hiện nguyên hình cho anh em tôi thử coi?.
Tì Lam nói:
– Khó gì sự đó.
Nói rồi liền chỉ một cái, đạo sĩ ngã lăn hiện nguyên hình là con ngô công, dài gần ba thước.
Tì Lam lấy ngón tay út đỡ con rít dậy, đằng vân về động Thiên hoa.
Còn Bát Giới hỏi Hành Giả rằng:
– Bà ấy giỏi lắm hay sao, mà không sợ đồ dữ hé?.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ta hỏi thăm bà ấy xưng là mẹ sao Mão như kê, chắc bà nầy cốt là gà mái; bởi gà hay ăn rít, nên bắt nó như chơi.
Tam Tạng nghe nói càng lạy nữa, rồi bảo các trò dọn cơm nước ăn uống xong xuôi.
Tôn Hành Giả lấy lửa đốt động rồi thầy trò chỉ dặm Tây Phương.