Sầm lão vừa nghe, nhíu mày than một tiếng. “An nhi lo lắng cũng đúng.” Ông nghĩ đến những thứ đó đều tiềm tàng nguy hiểm. Đặc biệt Thiệu Vân An lại nói chuyện tuỳ ý, dễ dàng đụng đến những văn nhân tâm cơ, sơ sót một cái lại xảy ra phiền phức lớn.
Khang Thuỵ nói. “Vậy thì tới Bạch Nguyệt học đường. Học đường là của Sầm lão, ta thấy chỉ cần là trong Sắc Nam phủ này, sẽ không có người dám đến học đường gây sự.”
Tưởng Khang Ninh cùng Sầm lão đồng suy nghĩ. Dù sao Khang Thuỵ còn chưa biết trà và rượu bên phía quân hậu có liên quan đến Thiệu Vân An. Vương Thạch Tỉnh lên tiếng. “Đại gia nếu thích nghe Thiệu Vân An nói, không bằng cứ đến trong viện như hôm nay mà tâm tình. Vân An tuy hiểu rộng, nhưng đệ ấy còn niên thiếu. Nhà của chúng ta tuy rằng cũng có chút bạc, nhưng dù sao cũng là nông gia tử, chúng ta không muốn Sầm lão và đại ca gặp phải phiền toái không tất yếu.”
Thiệu Vân An lập tức nói. “Đúng cậy. Mọi người thích nghe ta nói “hồ ngôn loạn ngữ” thì cứ tới tiểu viện. Chúng ta đóng cửa lại nói thì chẳng cần kiêng kị gì hết. Nói thật, đến học đường, ta quả thật không dám nói.”
“Vậy làm phiền.”
Vẫn là Khang Thuỵ đầu tiên lên tiếng. Thiệu Vân An không nghĩ tới y lại không tiếp tục kiên trì.
Sầm lão gật đầu. “Như vậy rất tốt. Dù sao chỗ là cũng là nhà lão phu, không có việc gì lão phu liền ở chỗ này.” Một bộ biểu tình “Đây là nhà nhi tử ta”. Xem thấy Thiệu Vân An tâm tình rất tốt.
“Vậy thì làm phiền.”
Khang Thuỵ và ba vị tú tài lập tức đáp ứng. Thiệu Vân An vui vẻ nói. “Ta và Tỉnh ca cầu còn không được.”
“Vân An, ngươi nếu không bận gì có thể nói tiếp sức sản xuất và khoa học kỹ thuật, còn có cái câu “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” cũng là ý tưởng của ngươi sao?”
Thiệu Vân An không dám tiếp tục mặt dày, đành nói. “Ta chỉ nhớ rõ câu nói này xuất phát từ một vị tên là Phạm Trọng Yêm, nhưng quên mất là ai nói cho ta.
Toàn văn là như thế này. “Khánh lịch tứ niên xuân, Đằng Tử Kinh trích thủ Ba Lăng quận, Việc minh niên chính thông nhân hòa. Bách phế cụ hưng, nãi trùng tu Nhạc Dương Lâu, tăng kỳ cựu chế, khắc Đường hiền kim nhân thi phú, y kỳ thược dư tác văn dĩ ký chi…
Ta phù! Dư thường cầu cố nhân nhân chi tâm. Hoăc dị nhị giả chi vi, hà tai? Bất dĩ vật hỉ, bất dĩ kỷ bi; Cư miếu đường chi cao,, tắc ưu kỳ dân; Xứ giang hồ chi viễn, tắc ưu kỳ quân. Thị tiến diệc ưu, thoái diệc ưu,, nhiên tắc hà thì nhị lạc gia? Kỳ tắc viết: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc dư.” Y! Vi tư nhân, ngô thùy dữ quy!” *
(*Chú thích: Mùa xuân năm thứ tư, niên hiệu Khánh Lịch. Ông Đằng Tử Kinh phải trích ra làm Thái Thú Ba Lăng. Đến năm sau chính sự thông đạt, lòng người vui vẻ, phàm việc gì từ trước hoang phế thì đều tu sửa lại cả. Bèn sửa sang lại Lầu Nhạc Dương, khắc những thơ phú các nhà hiền sĩ từ đời Đường đến đời nay ở trên lầu, cậy ta làm bài ký…
Than ôi! Ta muốn cầu xem tấm lòng các bậc chân nhân thời xưa, thấy có khác hai điều buồn vui trên. Họ không vui bởi ngoại vật, cũng không vì mình mà u sầu. Ở chỗ cao như trong triều đình thì lo cho dân. Ở xa ngoài sông hồ thì lo cho vua. Thế là tiến cũng phải lo, mà thoái cũng phải lo vậy. Song thế thì lúc nào được vui? Tất phải trả lời rằng: “Khi lo là lo trước cái lo của thiên hạ. Khi vui là vui sau cái vui của thiên hạ.” Than ôi! Nếu không có những người như thế thì ta biết đi về cùng với ai?)
Khi Thiệu Vân An đọc xong hết bài thơ “Nhạc Dương lầu ký”, ở đây ngoài Vương Thạch Tỉnh còn có thể giữ bình tĩnh, những người khác toàn bộ đều đứng lên. Phạm Trọng Yêm là Tống triều nhân sĩ. Văn hoá khoa học kỹ thuật của Tống triều là thời kỳ huy hoàng nhất. Phạm Trọng Yêm lại là nhà văn học kiệt xuất của Tống triều, vừa là nhà tư tưởng, nhà chính trị gia. Tư tưởng của ông, tài năng văn chương của ông đối với người ở thời đại này mà nói, là tuyệt đối vượt bậc.
Sầm lão kích động đến tay còn có chút run lên. Ông dùng lực nắm lấy Thiệu Vân An, hỏi. “An nhi, ngươi thật sự không nhớ ra là ai nói cho ngươi sao? Vậy ngươi có biết Phạm Trọng Yêm này là ai không?”
Thiệu Vân An rất “vô tội” mà lắc đầu một cái. “Không nhớ rõ. Ta đã quên nhiều chuyện trước kia. Lúc sau chết qua một lần thì quên càng nhiều, nhưng trong đầu vẫn còn rất nhiều thứ khác.”
“Này…!”
Thiệu Vân An thậm chí còn vô tư hơn. “Cha, ngài có biết Nhạc Dương lầu không? Ta nhớ mang máng cái này tên gọi hình như là Nhạc Dương lầu ký?”
“Nhạc Dương lầu ký?”
Sầm lão mờ mịt nhìn Tưởng Khang Ninh. Tưởng Khang Ninh lắc đầu. “Ta cũng chưa từng nghe nói qua Nhạc Dương lầu này. Ta sẽ nhờ người hỏi thăm, nhưng rất khó để dò hỏi nhân sĩ ẩn danh trong dân gian.”
“Nhất định phải tìm!” Sầm lão hận không thể lập tức nhìn thấy Phạm Trọng Yêm. Thiệu Vân An không phúc hậu ở trong lòng cười trộm.
Tưởng Khang Ninh lại vội vàng.
“Vân An, chỉ có nhiêu đây sao? Ngươi có nhớ hết không? Ngươi còn nhớ người này còn viết cái gì khác không?”
Thiệu Vân An làm bộ cố gắng nhớ lại. Một hồi sau, hắn lắc đầu. “Ta chỉ nhớ một bài này.”
Sầm lão thất vọng không thôi, tiếp theo hai mắt lại toả sáng. “An nhi, ngươi còn nhớ cái gì nữa không?”
Thiệu Vân An chớp chớp mắt. “Nhớ rất nhiều, lão gia ngài muốn nghe cái nào?”
“Cái nào cũng nghe hết!”
Ngoại trừ Vương Thạch Tỉnh, tất cả mọi người đều hò hét.
Thiệu Vân An nhìn mọi người chung quanh một vòng, ánh mắt dừng tại trên người Vương Thạch Tỉnh, sau đó khẽ mỉm cười, ngâm ra. “Viêm Hoàng mà, nhiều hào kiệt, lấy một địch trăm người không khiếp. Người không khiếp, thù tất huyết, xem ta Hoa Hạ nam nhi huyết. Nam nhi huyết, tự lừng lẫy, hào khí quán ngực tâm như sắt…
Nam nhi đương sát nhân, sát nhân bất lưu tình. Thiên thu bất hủ nghiệp, tẫn tại sát nhân trung. Tích hữu hào nam nhi, nghĩa khí trọng nhiên nặc. Nhai tí tức sát nhân, thân bỉ hồng mao khinh.”
Tác giả hiện đại thù thánh tiên sinh “nam nhi hành”, Thiệu Vân An là tặng cho Vương Thạch Tỉnh cùng với các chiến sĩ và tướng quân luôn như vậy bảo hộ quốc gia. Một bài “nam nhi hành” thật dài, cho dù là nhóm văn sĩ yếu nhược cũng hận không thể tay cầm đại đao, xông ra chiến trường, chém giết địch nhân.
“Quân bất kiến: Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai, ôn lưu đáo hải bất phục hồi! Hựu bất kiến: Cao đường minh kính bi bạch phát, triêu như thanh ty mộ thành tuyết. Nhân sinh đắc ý tu tận hoan, mạc sử kim tôn không đối nguyệt! Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng, thiên kim tán tận hoàn phục lai…”
Lý Bạch “Thương Tiến Tửu”, mang đến cho người nghe cảm xúc tự do mãnh liệt, làm người ta không khỏi mơ màng nước sông hoàng hà chảy từ trên trời xuống là như thế nào. Làm người đối với chén rượu đối trăng thêm phần dũng cảm. Mà trời sinh tài tất có chỗ dùng, 360 nghề, nghề nào cũng có trạng nguyên hợp lại càng tăng thêm sức mạnh?
“Minh nguyệt kỷ thời hữu? Bả tửu vấn thanh thiên. Bất tri thiên thượng cung khuyết, kim tịch thị hà niên… Đãn nguyện nhân trường cửu, thiên lý cộng thiền quyên.”
Một bài “Thuỷ Điệu Ca Đầu – Trung thu”, khiến những ai chưa từng nghe qua “từ” như phảng phất tiến vào một mảnh văn học khác (“từ” là một thể loại thơ nha các bạn!). Thời đại này, thơ ca còn chưa đạt đến thời kỳ cường thịnh như thơ Đường, từ lại càng chưa xuất hiện. Mà câu cuối cùng. “Đãn nguyện nhân trường cửu, thiên lý cộng thiền quyên” lại khiến Tưởng Khang Ninh và Tưởng Khang Thần viền mắt nóng lên.
Ngày đó, Khang Thuỵ cùng ba vị tú tài mặt dày ở lại. Sầm lão cùng Tưởng Khang Ninh cũng không rảnh đi chơi cái gì mà khối rubik. Hai người “ép” Thiệu Vân An đem một bụng mực nước đểu phun ra, còn lấy giấy bút tỉ mỉ ghi chép lại. Thiệu Vân An đơn giản gọi ba hài tử tới, tiện cho bọn nhỏ hun đúc hun đúc.
Tuy nhiên, Thiệu Vân An cũng không một mạch phun hết một bụng hiểu biết ra. Đùa giỡn sao, nếu nói hết sạch ra chắc chắn sẽ biến thành người câm. Còn nữa, mặc dù hắn muốn lên mặt nhưng vẫn phải có điểm mấu chốt. Huống chi nơi này vẫn còn có người ngoài.
Thiệu Vân An ngâm hơn hai mươi bài thơ ca, mười mấy bài từ, bảy tám bài văn chương cổ. Đây là một phần rất nhỏ trong đống “mực cổ” trong bụng hắn. Nhưng tất cả mọi người ở đây, ngoại trừ Vương Thạch Tỉnh, thì như lượm được chí bảo. Đặc biệt là Sầm lão cả đời nghiên cứu học vấn, ngay cả bữa trưa và tối cũng chẳng buồn ăn. Ông viết đi đọc lại mấy bài thơ hết lần này đến lần khác, cố gắng nghiền ngẫm. Còn cùng Tưởng Khang Ninh, Khang Thuỵ và ba vị tú tài thảo thuận, cuối cùng Quách Tử Du cũng bị kéo tới, hứng thú cực kỳ. Sầm lão hạ quyết định, không đến vạn bất đắc dĩ, tuyệt đối không rời thôn Tú Thuỷ!