“Đơn giản vì một linh hồn thuần khiết có thể làm tăng pháp lực của quỷ hơn là một linh hồn tà ác, đó là lý do quỷ luôn tìm cách ăn linh hồn của những người vừa mất.”
Thanh Lâm cười khẩy:
“Tui thắc mắc anh đã ăn linh hồn thuần khiết của ai để gia tăng pháp lực chưa?”
“Chuyện đó không liên quan đến chú em nhé.”
Trúc Chi tiếp tục tập trung vào gương đồng hơn chuyện cải vả giữa hai thằng con trai:
“Vậy chiếc gương đó thuộc những đồ vật bị nguyền rủa rồi, cái này thuộc phạm vi của Huyết Yêu, không biết anh ấy biết chiếc gương ấy đang ở bảo tàng hay không.”
“Anh e là anh ấy không biết.”, Vô Ảnh nói tiếp, “Nếu Huyết Yêu biết, anh ấy sẽ không để nó lưu lạc bên ngoài được, vì nó thật sự rất nguy hiểm.”
“Nếu anh và ả ta đánh nhau, ai sẽ thắng.”
“Cô em tin anh thái quá rồi đấy, cô ả là quỷ đã ngàn năm, ả lại ăn rất nhiều linh hồn tinh khiết rồi, anh muốn đấu với ả cũng được chỉ là thắng thua anh không chắc lắm.”
Nhất Uy nói:
“Chỉ cần dụ cô ả ra khỏi gương và đâm thanh kiếm này vào trái tim ả là được.”
Vô Ảnh trở nên nghiêm túc có lẽ bởi vì lời hứa với Huyết Yêu, nếu Trúc Chi đi đến nơi đó, gã cũng muốn đi để bảo vệ cô ấy. Vô Ảnh đưa lời đề nghị:
“Anh muốn đi cùng mấy đứa. Nếu gương đồng kia thật sự ở trong bảo tàng, rất có thể có nhiều người gặp nguy hiểm. Huyết Yêu giao cho anh nhiệm vụ bảo vệ cô ấy, anh không thể không đi được. Hai đứa từ chối cũng vô dụng.”
Nhất Uy không từ chối lời đề nghị của Vô Ảnh bởi vì gã cũng thuộc danh sách được mời đến dự triễn lãm từ thầy hiệu trưởng. Mặt khác Vô Ảnh biết nhiều về thế giới cỏi âm nên có nhiều kinh nghiệm chiến đấu với quỷ nhiều hơn. Hơn nửa, Trúc Chi thật sự cần người bảo vệ dù cậu biết cô hoàn toàn không cần điều đó, đề phòng vẫn hơn không.
Trúc Chi chợt nhớ ra lời của Tuấn Tú, cô chạy lên phòng bưng chiếc hộp mà Huyết Yêu để lại cho cả đám rồi mở nó ra. Cô thấy có một khẩu súng lục ổ xoay màu đen, một cái kẹp tóc hình cung tên rất đẹp màu đỏ, cùng với một mẩu giấy ghi chú nhỏ. Trúc Chi lôi nó ra đọc trước mặt mọi người:
“Khẩu súng ma thuật của Thanh Lâm. Cách dùng: Lần xoay thứ nhất, bên trong có hàng ngàn viên đạn ma, mỗi lần bắn ra đều thu phục được những linh hồn không còn khả năng chiến đấu. Lần xoay thứ hai có những viên đạn làm đóng băng hành động của ma quỷ.”
Thanh Lâm hào hứng cầm lấy khẩu súng mở ra xem, quả nhiên bên trong không có lấy một viên đạn. Nếu có ai phát hiện cậu đang tàng trữ một khẩu súng lục cậu cũng sẽ giải thích rằng cậu chỉ sưu tầm đồ giả cầm chơi.
Trúc Chi lấy kẹp tóc hình cung tên ra ngắm nghía. Vô Ảnh giựt lấy tờ giấy trên tay cô đọc tiếp, gã bắt chước giọng đọc lạnh tanh như đưa đám của Huyết Yêu vô cùng giống:
“Kẹp tóc hình cung tên thuộc quyền sở hữu của Ngân Chi. Ta đã phù phép cho nó để chỉ có cô mới dùng được. Cô cứ việc lôi nó ra khỏi mái tóc của mình và giương cung bắn, mũi tên tự động được tạo ra mỗi khi cô kéo dây cung.”
“Đúng cái mình đang cần.”, Trúc Chi thì thầm. Cô biết hắn đã hứa chế tạo cho cô một cái, chỉ không ngờ hắn làm nhanh như vậy, đúng là thần mà.
Cả một tuần bình thường trôi qua sau đó, Vô Ảnh vẫn miệt mài học hành với Thanh Lâm, Nhất Uy và Trúc Chi. Cả bốn người dùng nhà của Trúc Chi làm căn cứ chính. Đương nhiên họ cũng nhiều lần trông chờ Huyết Yêu xuất hiện, nhưng có vẻ lần xuống gặp Diêm vương lần này lâu hơn những lần trước, nên đến giờ vẫn chưa thấy bóng dáng hắn trở lại. Trúc Chi hy vọng hắn đừng ở dưới đó nguyên ngày, bởi vì như thế thì trên này cũng trôi tận mười năm, cô không muốn nghĩ thế giới loài người sẽ ra sau nếu hắn đi đến mười năm trong khi kẻ muốn sở hữu thanh kiếm của Quỷ đang ở đâu đó ngoài kia.
Chiều thứ bảy vừa trôi qua trong yên bình, học sinh vừa kiểm tra xong môn đầu tiên – môn Ngữ văn. Tuần sau mới bắt đầu kiểm tra những môn khác. Vô Ảnh nhẹ cả người khi vừa làm trót lọt đề kiểm tra văn học, gã nhận ra rằng mình cũng không đến nổi ngu ngơ, gã cũng viết nghuệch ngoạc được hai cặp giấy. Vừa ra khỏi phòng thi, gã đã chạy đến lớp Trúc Chi chực chờ đám kia tan học.
Thanh Lâm công nhận tính tình của Vô Ảnh có chút cổ quái, nhưng mấy hôm đi chơi chung với gã cũng dần dần trở nên thích nghi hơn. Cậu phát hiện gã không xấu xa như những con quỷ mà cậu hay tưởng tượng ra vào ban đêm; gã rất chịu khó học hành, dưới sự cố vấn không nhiệt tình lắm từ cậu và trên mức nhiệt tình một chút của Nhất Uy, cậu đã không còn cho Trúc Chi kèm Vô Ảnh học nữa vì cậu sợ giữa hai người phát sinh chuyện ngoài ý muốn; gã là một người ham hiểu biết, ngày nào cũng vào thư viện đọc hết mớ sách trong đấy, miệng luôn cằn nhằn “Trường gì chỉ có bấy nhiêu cuốn sách.”; mỗi lần thấy ai bị bắt nạt thể nào gã cũng cho kẻ bắt nạt người khác một trận, theo lời của gã nhấn mạnh “Tao chúa ghét máy thằng ỷ mạnh hiếp yếu, có giỏi tìm mấy thằng ngang cơ mà đánh.”; chỉ trong vòng mấy ngày dánh tính “thằng Minh con thầy Hóa” trở thành trùm trong trường, người ta đặt luôn cho gã biệt danh “Ông trùm”.
Thanh Lâm thừa nhận làm bạn với Vô Ảnh khiến cậu rèn luyện đức tính kiên nhẫn của mình, gã không bao giờ xem trọng nội quy trường lớp, mặc dù cậu đã kè kè nói bên tai gã nhiều đến mức gã gãi tóc đến xù cả đầu. Mỗi lần như thế, thể nào Vô Ảnh cũng quăng vào mặt Thanh Lâm một câu:
“Biết rồi. Càm ràm như một ông già.”
Nhất Uy thể nào cũng cười sặc sụa một phen. Bộ ba Nhất Uy, Trúc Chi, Thanh Lâm giờ có thêm Hiếu Minh vào hội. Chẳng mấy chóc đã trở thành “bộ tứ siêu đẳng” nổi tiếng trong trường. Mọi người đồn nhau rằng chính vì Nhất Uy và Trúc Chi đã từng cứu mạng Hiếu Minh nên giờ họ trở nên thân thiết như vậy, lúc nào đi đâu cũng đi bốn người. Các bạn nữ sinh rất ghen tỵ với Trúc Chi vì chơi được với ba anh chàng hot nhất trong trường.
Tối thứ bảy hôm đó, cả bọn có hẹn ăn tối nhà Thanh Lâm, Trúc Chi cố tình ăn mặc không thể đơn giản hơn, cô mặc một chiếc áo thun màu vàng nhạt kết hợp với quần jean đen, mái tóc được cột lên gọn gàng. Cô không muốn làm mất điểm trong mắt thầy hiệu trưởng, đặc biệt với tư cách một người bạn thân của Thanh Lâm, theo như suy nghĩ của cô thầy hiệu trưởng chắc nghiêm khắc lắm.
Thầy hiệu trưởng tỏ ra không nghiêm khắc như Trúc Chi tưởng, thầy có nụ cười rất hiền lành, thầy mời cả bọn vào trong phòng khách. Trúc Chi để ý thấy bánh trái được bày biện chi chít trên bàn. Thầy mời cả đám ngồi xuống ghế. Thầy nói trước:
“Thầy có dặn Thanh Lâm mời các em tới đây. Thầy muốn chúng ta hợp mặt trước khi đến bảo tàng vào ngày mai. Thầy nói luôn, thầy có năm vé vào dự, mọi chi phí ăn uống của mấy đứa thầy chịu toàn bộ. Tại sao thầy lại mời mấy đứa mà không phải người khác, bởi vì thầy thích những người yêu thích môn lịch sử. Nếu mời mấy em học giỏi khác nhưng niềm đam mê một chút cũng không có thì thầy không vui lắm.”
Trúc Chi lấy can đảm hỏi:
“Thầy dựa vào tiêu chí nào biết được tụi em yêu thích môn lịch sử?”
“Còn nhớ đề tài môn lịch sử mà cô Ngọc cho chứ? Chính thầy là người đưa ra yêu cầu, thầy muốn xem trong số các em học sinh có ai thật sự xứng đáng để thầy gởi cả tấm chân tình không.”
Vô Ảnh vừa bỏ vô miệng một miếng xoài, gã thè lưỡi suýt chảy nước mắt vì xoài chua. Trúc Chi thấy vậy tiện tay vỗ lên lưng gã mấy cái, cô còn nói thêm:
“Chấm muối mà ăn sẽ đỡ chua.”
Vô Ảnh chộp vội ly nước uống cạn nguyên một cốc rồi há mồm thở hổn hễn. Thanh Lâm lắc đầu xấu hổ, cậu không hiểu tại sao ba của cậu nằng nặc mời gã đến nhà cho bằng được.
Thầy hiệu trưởng không phật lòng chút nào, ngược lại thầy còn sợ học sinh vì có mặt thầy mà mất tự nhiên, nhất là Hiếu Minh – thầy có nghe qua vụ rạch tay tự tử trong lớp học vì căng thẳng của nó. Đợt đó thầy phải an ủi thầy Hóa hết lời mới nhận được một nụ cười từ thiện từ thầy ấy.
Vô Ảnh ho sặc sụa một hồi rồi ngưng lại một khắc, gã thấy một chiếc bình hoa cổ phía trên tivi một chút. Gã vui vẻ đứng dậy tiến về phía đó, gã với tay cầm lấy chiếc bình cổ, Thanh Lâm theo sau sát nút cố nhấn mạnh với gã chiếc lọ đó ba của cậu thích nhất, coi chừng vỡ là nguy. Nhưng dĩ nhiên tên Vô Ảnh cứng đầu hơn cậu tưởng, gã không những không buông nó ra mà còn chè môi giề biễu:
“Còn tưởng đồ thật.”
Trúc Chi cũng đứng dậy đi theo, cô thấy chiếc bình cổ ấy được làm bằng gốm, bình miệng loe tròn, thân phình, thuôn dần xuống đấy, xung quanh bình in hoa văn rất đẹp nhất là bốn con thiên nga với đủ tư thế khác nhau.
Thầy hiệu trưởng cũng nghe Vô Ảnh nói vậy liền đặt câu hỏi:
“Em cũng biết đến nó sao?”
“Bình gốm hoa lam vẽ thiên nga. Đó là bảo vật quốc gia. Nhưng đây lại là đồ giả.”
Thầy hiệu trưởng trầm ngâm:
“Thầy đã tốn không ít tiền mới mua về được. Đây là bình gốm cổ thời Lê Sơ không lý nào là giả được.”
Vô Ảnh lắc đầu chỉ vào thân gốm thuyết minh:
“Bình gốm thật bao gồm bảy hoa văn: hoa dây, cánh sen kép trong có xoắn ốc, vân mây dải hình khánh, thiên nga, sóng nước, lá đề và phong cảnh. Mà bình gốm này thầy xem đi thiếu mất thứ gì?”
Thầy hiệu trưởng nghe rõ từng lời của Vô Ảnh vừa nói, vừa nhìn chầm chầm vào bình gốm, cố nheo mắt lại để tìm cái nào chưa có trên bình gốm. Ngay cả Thanh Lâm và Nhất Uy cũng mò tới nhìn xem.
Vô Ảnh thầm than trời rồi quyết định nói huỵch toẹt ra:
“Sóng nước. Không có nét vẽ của sóng nước. Dường như người làm bình gốm này nhìn bình gốm thật không kỹ lắm làm mất đi vào nét vẽ của sóng nước. Còn nữa, chiếc bình thật vẽ thiên nga với bốn nét vẽ ‘phi, minh, túc, thực’ tức là ‘bay, kêu, ngủ, ăn’. Nhưng chiếc bình này vẽ đến hai nét vẽ thiên nga đang bay, không phải đồ giả thì là gì.”
Trúc Chi muốn vỗ tay khen ngợi gã, nhưng thay vì làm vậy cô hỏi:
“Anh đã thấy chiếc bình thật rồi ư?”
“Đã có cơ hội ngó qua một lần. Anh rất thích đồ cổ, nếu không nói là anh tôn thờ chúng. Trong số đó anh thích nhất chính là chiếc hộp trang điểm được làm từ gỗ trầm hương có trong viện bảo tàng nghệ thuật ấy.”
Thầy hiệu trưởng nói:
“Thầy có một cái ở trên lầu, chiếc hộp trang điểm của quý tộc thời xưa được làm bằng gỗ trầm hương.”
Vô Ảnh tay bắt mặt mừng vồ lấy thầy hiệu trưởng rồi cả hai sóng đôi đi lên lầu bỏ lại cả ba đứa nhỏ mặt ngơ ngác nhìn nhau đầy hoang mang. Trúc Chi suýt nữa nuốt luôn hột nhãn đang ngậm trong miệng.