Địa bàn khống chế của Lý Quy Nhơn là Minh Châu. Hình Châu và Triệu Châu, kho lương chủ yếu của hắn cũng nằm ở huyện Lâm Minh của Minh Châu, có trọng binh phòng ngự. Giới bị rất ư nghiêm ngặt. Còn lương thực chú yếu của lẩn nam chinh này sẽ được vận chuyển trước từ u Châu đến kho lương Lâm Minh, rồi mới nam hạ đi qua Phủ Khẩu Hình vận đến Lộ Châu.
Nếu như muốn cắt đứt đường lương thực của Yến quân, đoan đường tốt nhất chính là khúc từ Hàm Đan đến huyện Phủ Dương, quan đạo dài khoáng năm mươi dặm. Nhất lộ rừng núi rậm rạp, có rất nhiều địa điểm náu minh cực tốt.
Quân đội của Điền Thừa Tự chù yếu tập trung tại Ngụy Châu và Bác Châu, cũng có lượng ít trú binh tại Tương Châu, chi có hàng ngàn người. Chú yếu tập trung trong các thành thị chú yếu như thành Tương Châu và Nghiệp Huyện…, Vệ Châu phía nam không binh trú thủ. Sau khi Lý Quang Bật vào Hà Đông, để chiếm cứ đường thông đạo cực kỳ quan trọng như Bạc Hình này, hắn đã xuất binh năm ngàn người, chiếm cứ huyện Cộng Thành Vệ Châu, cũng là chiếm cứ lối vào Bạch Hình tại Hà Bắc đạo.
Tối ngày hôm đó, một đội kỵ binh hai ngàn người phóng băng băng giữa đất Hà Bắc, đại tướng đi đầu chính là Lý Quang Bật, hắn phụng mệnh của Lý Khánh An đến chặn lại đường lương thực của Yến quân. Đường lương thực này đương nhiên là khó mà cất đứt được, nhung có thể thừa cơ tiêu diệt vài đội nhân mã chuyển lương, cũng có thể phần nào làm lung lây quân tâm Yến quân, cũng chẳng thua gì công to Lý Tự Nghiệp khi tập kích huyện Trường Tử.
Hai ngàn binh sĩ mà Lý Quang Bật tuyển chọn cực kỳ tinh nhuệ, đều là lão binh An Tây tòng quân trên năm năm. Tuyệt đại đa số đều là người Thồ Phồn từng theo hắn tiến công Lũng Hữu và Thổ Hoả La. Đều thân trải trăm trận, hơn nữa chiến mã họ dùng đều là ngựa Đại Uyển thượng hạng, con nào con nấy cao to tuấn tú. Sờ trường trường chinh vạn dặm.
Hai ngày kỵ binh băng băng giữa màn đêm đen thẳm, vó ngựa đã được dùng vải bông An Tây bọc kỹ, băng đi giữa rừng rậm vào thảo nguyên. Không còn tiếng vó ngựa chói tai, nôm tựa nhưng bóng ma lướt đi dưới ánh trăng huyền ảo.
Đoàn kỵ binh đã rời xa Tương Châu và Nghiệp Huyện đi thẳng bắc thượng, có thể nói thiên lý vô kê đề, tuy thời gian đã chuyển sang đầu hạ tràn trề sức sống, nhung nơi mà họ đi qua đều không một bóng người, đâu đâu toàn huyện thành trống trơ hoặc thôn trang hoang tàn không còn bóng người, ngờ chừng đã đi vào quỳ vực Trần gian. Sau An Sử chi loạn, khu vực Hà Bắc đã bị phủ lên cánh tượng lụi bại hoang tàn.
Trong lòng Lý Quang Bật thấy nặng trĩu, lúc này hắn mới có thể cảm nhận rõ được khố tâm vì sao Lý Khánh An phải mấy lẩn di dân quy mô và cả giới hạn chiến lược không cho quân đội của An Lộc Sơn vào Hà Đông. Quân của An Lộc Sơn còn ghê gớm hơn nạn châu chấu, nơi nào đi qua đều bị chúng càn quét sạch sẽ.
Đoàn kỵ binh ngày đêm phóng đi. Hành quân suốt hai ngày hai đêm. Tối hôm đó, đoàn kỵ binh cuối cùng cũng đã đến một nơi hẻo lánh không mấy tiếng tăm tên là Chiêu Nghĩa trấn tại bờ nam Phủ Thủy. Nơi đây là nơi kết họp giữa mạch núi Thái Hành sơn cùng đồng bằng, là một dãy núi đồi thấp kéo dài vài chục dặm. Còn bên kia sông chính là Phủ Khẩu trấn, là lối vào của Phủ Khẩu hình.
Vùng này thế núi thấp trũng, rừng núi xum xuê, do nhân khẩu chủ yếu tập trung tại
Khu vực phía đông huyện Phù Dương, vì thế vùng này người cực ít. Môi trường cHứa gặp phải phá hoại, có khu rừng lớn trải dài trăm dặm thênh thang.
Nhưng điều kiện này đã không bị bỏ quên xuất hiện trên sa bàn nhỏ của Lý Quang Bật. Lý Quang Bật có một sa bàn đặc biệt, là lễ vật Lý Khánh An đã tặng hắn hồi mùa đông năm ngoái, điểm đặc biệt của nó là vì sa bàn này được ghép lại từ một trăm mẫu tiểu sa bàn một thước hình vuông tạo thành. Nếu cẩn thiết, hắn có thể chi mang một bộ phận đi, như thể hiện tại. Hắn chì cẩn mang bốn mẫu sa bàn theo hành quân đã có thể bao gồm tất cả lộ tuyến hành quân của hắn.
Dưới ánh trăng mờ, các binh sĩ đều tranh thù nghỉ ngơi trong rừng. Lý Quang Bật thì tìm một khoảng đất trống, một minh ngồi bàn chân trên đất. Lợi dụng ánh trăng soi sáng chăm chú nghiên cứu sa bàn trước mắt. Theo tình báo mà Lý Khánh An đã cung cấp cho hắn. Gần đây An Lộc Sơn lẩn lượt cho vận chuyển năm mươi vạn thạch lương thực từ u Châu đến Minh Huyện. Như vậy trong thời gian này, đội chuyển lương thực đi qua Phủ Khâu Hình đến Hà Đông cũng sẽ được gia tăng rất nhiều.
Xích hầu hắn phái ra đã đi thám thính tình hình. Lý Quang Bật suy ngẫm là hướng đi tiếp của Yến quân, sau khi huyện Trường Từ bị tập kích. Yến quân nhất định sẽ gia tăng phòng ngự. Muốn tập kích thành công thì cũng không còn dề dàng nữa. Lý Quy Nhơn có thê không thiện dùng binh đột kích, nhưng An Khánh Tự thì sao? Nhất là đi cùng An Khánh Tự nam hạ còn có mưu sĩ Cao Thượng, hắn liệu có nhìn ra minh sẽ tập kích đường chuyển lương không?
Dù cho trong lòng Lý Quang Bật hiểu rõ khó khăn khi đánh úp, nhung hắn vẫn phải đi nước cờ này, hắn không muốn thua Lý Tự Nghiệp, nhất là khi Lý Tự Nghiệp nói hắn đi đi lại lại trên Hoàng Hà. Đã vạn phần cảm kích hắn. Mỉa mai của Lý Tự Nghiệp cũng như cách nghĩ của bao nhiêu người. Quả thực không ai có thể lý giải sau khi hắn vượt sông Hoàng Hà. Vì sao lại phải rút quân về. Rõ ràng Tương Châu không có quân đội trú phòng, hắn vì sao không đi chiếm đóng? Không chi người ngoài không thể lý giải, cả thù hạ của hắn cũng không Lý giả. Lý Thịnh còn cố ỷ từ Tề Châu chạy đến chất vấn hắn.
Hắn khó mà trả lời được, nhưng lời này đều do hắn trung thành chấp hành mệnh lệnh của Lý Khánh An. Lý Khánh An không cho phép hắn chiếm Tương Châu, không cho phép hắn đánh Ngụy Bác, lệnh hắn phải rút về Hà Nam trước khi Hoàng Hà băng tan. Và cho hắn một Lý do, quân lương bổ cấp khó khăn.
Thật sự là như thế ư? Cũng như Lý Thịnh đã chất vấn. Hoàn toàn có thể tổn lượng lớn lương thực tại Tương Châu, căn bàn không cẩn thiết chuyển về Hà Nam, hơn nữa bọn họ sờ hữu đội thuyền vận chuyến duy nhất của Hoàng Hà. Trong một ngày một đêm có thể chuyển vài vạn đại quân vượt qua Hoàng Hà. V. V và v. V, bọn họ có thể rút về Hà Đông, chấp tay dâng tặng Hà Bắc cho An Lộc Sơn.
Lý Quang Bật không cách nào trả lời được nghi vấn của binh sĩ, càng không cách nào trả lời cho người thiên hạ. Vì thế hắn bèn phải được cho một cái biệt danh là “người lái đò trên sông Hoàng Hà”, từ đầu chí cuối, hắn chi từng giải thích qua với một mình Lý Thịnh mà thôi, cho dù giải thích, hắn cũng chi nói không đầu không đuôi, “An Lộc Sơn nếu không được toàn cánh Hà Bấc, hắn sẽ không phân binh trú thủ, cũng không cách gì hình thành được quân phiệt chia cắt tại Hà Bắc.”
Đấy là nguyên văn của Lý Khánh An. Lý Quang Bật cũng cHứa hoàn toàn lý giải, nhung giờ hắn hiểu rồi. Quân phiệt chia cất tại Hà Bắc đã dẩn thành hình. Sử Tư Minh bộ, Lý Hoài Tiên bộ, Lý Quy Nhơn bộ, Thái Hy Đức bộ, Điền Thừa Tự bộ, An Khánh Tự bộ, nhưng quân đầu này người nào người nấy đều không dễ dàng đè đầu cưỡi cỗ được, hoàn toàn không chịu nhường nhịn nhau, toàn dựa vào uy tín của An Lộc Sơn đê duy trì, một khi An Lộc Sơn gặp phải chuyện gì, Yến quân tất sẽ tự phân liệt.
Lý Quang Bật vẫn đang trầm tư. Lúc này tiếng bước chân vội vã phóng chạy vọng đến. Có thân binh đi lên bẩm báo: “Tướng quân, xích hầu có tin tức đến rồi.”
“Dẩn lên đây!”
Một tên xích hầu bị dẫn qua. Hắn quỳ một chân xuống bầm báo: “Bầm báo tướng quân, chúng ta đến thám thính tình báo.”
“Nói! Tình báo gì?”
“Tại phía bấc huyện Phủ Dương chừng năm mươi dặm, một đội lương thảo đương từ phía nam đi đến. Được tổ thành từ khoảng năm trăm chiếc xe ngựa. Vận chuyền toàn bộ đều là cỏ khô, tổng cộng có một ngàn hộ vệ kỵ binh.”
Lý Quang Bật trâm tư được một hôi. Đây chi là một đội lương thảo hạng trung. Hơn nữa không có lương thảo, giá trị không cao, nhung mục đích của hắn không phải là vì chặn được bao nhiêu lương thảo, chi cẩn thắng lợi, và quan trọng hơn nữa. Hắn ở đây càng lâu sẽ càng dễ bị bại lộ.
“Lý tướng quân…”
Xích hầu do dự một lúc nói: “Chúng ta có một tên huynh đệ bị mất tích.”
“Bị bắt cóc ư?”
“Không biết!” Xích hầu lắc lắc đầu. “Có lẽ là bị bắt cóc. Cũng có thể bị lạc đường.”
Phó tướng bên cạnh rất ư lo lắng, khẽ giọng nói: “Tướng quân, nếu như bị bắt cóc rồi. Hành tung của chúng ta sẽ bị bại lộ. Hay chúng ta quay về trước đã.”
“Không!”
Lý Quang Bật quyết liệt hạ lệnh nói: “Để huynh đệ lên ngựa, chuẩn bị xuất phát!”
Lệnh hạ như núi đổ, hai ngàn kỵ binh trờ người lên ngựa, vượt qua Phủ Thủy, phóng đi về phía bắc. Chi một chốc đã biến mất trong màn đêm nặng trĩu.
Trong một khu rừng phía tây quan lộ, An Thù Trung ngước đầu nhìn nhìn ánh trăng. Trăng đang xuyên qua mây màu. Lúc tò lúc mờ.
“An tướng quân, ta lo rằng quân Đường sẽ không đến!” Một quân quan bên cạnh
Khẽ tiếng nói.
An Thù Trung cười cười lắc đầu nói: “Bọn chúng chắc sẽ đến. Chi cẩn không phát hiện được chúng ta. Chúng ta không phải đã bắt được một xích hầu quân Đường sao? Lý Quang Bật cũng trong quân trung, cơ hội như thế sẽ không có nhiều đâu!”
Hắn vừa dứt lời thì một tên Yến quân xích hầu băng đến báo: “An tướng quân, đã phát hiện quân Đường, có khoảng hai người kỵ binh, đã đi đến ngoài hai mươi dặm.”
“Tốt lắm!”
An Thù Trung đắc ỷ hạ lệnh nói: “Chuẩn bị kéo lưới được rồi!”
Lý Quang Bật suất lĩnh hai nghìn kỵ binh phóng chạy băng băng ven bìa rừng rậm rạp, phi ngựa song song với quan đạo, nhưng quan đạo lại ở ngoài xa năm dặm. Lý Quang Bật lòng tin tràn ngập gấp trăm lẩn. Nhung không thê nào ngờ rằng một mỏm núi hắn vừa mới vượt qua được, lại chính là cửa bẫy do An Thù Trung bày ra.
Lúc này, một đội xích hầu chạy tới. Trên mặt bọn họ có chút sợ hãi. Thấp giọng ghé sát bên tai Lý Quang Bật nói vài câu, Lý Quang Bật mặt chợt biến sắc. Nhưng lại khoát tay áo, ý bảo binh lính tiếp tục đi tới. Phó tướng bên cạnh hắn vè mặt ngạc nhiên, biết rõ trong núi có hổ, lại cử chọn hướng núi có hổ đi sao?