Cuối cùng Hàn Mạc cũng múa xong chữ cuối cùng, bấy giờ mới nhè nhẹ đặt cây bút lông sói xuống cạnh nghiên mực.
…
– Tống đại nhân, phiền ngài đọc to cho mọi người cùng nghe!
Hàn Mạc mỉm cười và nói.
Tống Thế Thanh nhẹ nhàng nhấc cuộn giấy lên, nét mặt hiện lên vẻ tự tin cao độ, hắng giọng một cái, liếc nhìn hết thảy mọi người, sau mới ngâm một cách đầy cảm xúc:
Bao giờ có trăng sáng? Nâng chén hỏi trời xanh
Không biết cửa thiên cung
Đêm nay là năm nào?
Ta muốn theo gió quay về
Lại sợ cung điện tráng lệ
Trên cao vẫn cứ lạnh
Điệu múa làm rõ cảnh
Nào phải là trần gian.
.
Y là Lễ bộ Thị lang, đọc sách tụng lễ là chuyện rất bình thường, tuy không chắc có thể viết được tuyệt tác, nhưng học thuộc ngâm nga thì không chê vào đâu được. Âm dương chuyển tiếp có vần, có điệu. Bài thơ do y đọc thật là ý vị tràn trề.
Đọc chưa hết nửa bài thơ, cả sân đình đã không còn tiếng động.
Dẫu sao cũng là người lớn lên từ những nơi văn phong lễ giáo nhất nước Khanh, đa số có mặt ở đây đều là đại nhân sĩ, thế mà chỉ mới nghe được nửa bài, họ dường như cảm giác được ý cảnh kỳ ảo của bài thơ, của hơi thở xa xôi, mơ mộng.
Theo luật thơ văn nước Khanh, phàm là lấy cảnh làm thơ, thường cố không để cảnh vật đó xuất hiện trong bài, như vậy mới gọi là tuyệt bút. Cũng giống như tả hoa nhưng không nhắc đến hoa, ngâm nguyệt không trông thấy nguyệt. Có vậy mới từ hư vô mà lĩnh hội cảnh ý. Thế nên bắt đầu từ câu đầu tiên, bọn họ đã có ý nhạo báng trong lòng. Nhưng đến khi nghe các câu tiếp theo thì đã bắt đầu dao động.
Tuy là câu đầu tiên trực tiếp nói đến hai chữ “trăng sáng”, nghĩa là đã phạm luật “ẩn vật”, nhưng cũng là cách dùng câu hỏi làm câu mở đầu. Tiếp theo sau: “Nâng cốc hỏi trời xanh” lại dẫn đến một ý cảnh mới.
Theo đó là “Không biết cửa thiên cung”, lời thơ lập tức thăng hoa, sau lại là: “Ta muốn theo gió về…” không gian kỳ ảo như đưa người ta lên chín tầng mây, không vướng chút bụi trần, phong nhã thoát tục. Vỏn vẹn mấy câu đã phác họa nên một bức tranh vui tươi thanh nhàn của chốn thiên cung bay bổng, đẹp nhẹ nhàng.
Chỉ vẻn vẹn phác họa có vài nét mà đã dựng lên một ý cảnh kì ảo, thực sự khó mà đạt được, trừ khi đạt đến trình độ tột đỉnh, nếu không không thể có được bút pháp như vậy.
Chỉ điểm xuyết mấy từ, mà đã thể hiện nên một tài hoa hơn người, thật đáng được kính phục.
Đường Thục Hổ vẫn đang định tiếp tục ngồi ve vuốt đôi tay trắng nõn của Lục Nghê Thường, nhưng khi nghe được nửa bài thơ, bay bổng thoát tục, bất giác ngẩng đầu lên, nhìn về phía Hàn Mạc, biểu lộ sự kinh ngạc.
Tống Thế Thanh ngừng một chút, cố ý hắng giọng, hắn lại dùng chất giọng âm dương chuyển tiếp có vần, có điệu đọc tiếp:
Cho lầu son, cấp lụa là, không cần ngủ, cũng chẳng hờn, việc gì phải đợi đến trăng tròn?
Người có lúc buồn vui tan hợp
Trăng có khi mờ tỏ khuyết tròn…
Là chuyện khó vẹn toàn…
Chỉ mong được chờ đợi
Thiên lí cùng nàng trăng!.
Nếu nói nửa bài trước xây dựng mĩ cảnh thiên đình, thì nửa bài sau đi sâu mở rộng ý cảnh, lại một lần nữa thăng hoa.
Bài thơ “Bao giờ có trăng sáng”, giọng điệu mềm mại chính là danh phẩm của Tô Thức, lưu truyền ngàn năm, người đời vẫn mãi tranh nhau truyền tụng, sức hút của nó vĩnh viễn không phai, tuyệt tác như vầy tất nhiên không phải ca từ bình thường.
Tống Thế Thanh đọc xong, vẫn không kìm được lòng mà tán thưởng: “tuyệt vời, quả là tuyệt vời!”.
Vẻ mặt Đường Thục Hổ vẫn không ngớt kinh ngạc, lẩm bẩm: “Chỉ mong được chờ đợi. Thiên lí cùng nàng trăng…!” gần như vẫn đang ngẫm nghĩ về hàm ý của bài thơ. Bạn đang đọc truyện được lấy tại T.r.u.y.e.n.y.y chấm cơm.
Tất cả mọi người im lặng.
Trong số trưởng bối thông thuộc thơ văn nước Khánh, chưa chắc đã có người hiểu nổi điều diệu kì của bài thơ, nhưng đã là nhân sĩ, bình thường học đòi phong nhã, thiết nghĩ hay hay dở cũng phải biết chút ít.
Bài thơ làm cho mọi người cảm nhận một ý cảnh kì ảo, hiệu quả như vậy, tất nhiên không ai dám mặt dày mà nói đây là tác phẩm tồi.
Một số người cũng ngầm thấy hay, nhưng không ai dám nói ra lời, không khí trong sân đình rõ ràng là có chút khác thường.
Mãi một lúc sau, mới thấy Đường Thục Hổ đứng dậy, từ từ tiến đến trước mặt Hàn Mạc, chỉnh lại tay áo, sửa lại đầu tóc, chắp hai tay nói:
– Hàn huynh đại tài, Thục Hổ hôm nay mới biết cái gì gọi là thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân. Uổng cho Thục Hổ tự xưng phong lưu tài tử, tự tin tùy bút là có tuyệt tác. Hôm nay khi nghe tuyệt tác của Hàn huynh, mới biết Thục Hổ thật là tự cao tự đại. Hàn huynh nói xem thơ của tại hạ chỉ có vậy, tại hạ xin được lãnh giáo!
Bài thơ của Hàn Mạc làm cho mọi người cảm thấy giật mình, đến cả người phong lưu phóng túng, tự kiêu như Đường Thục Hổ cũng phải nhận thua, đây quả thật là chuyện làm mọi người không nói nên lời.
Văn sĩ nước Khánh có hàng ngàn hàng vạn, nhưng số người có thể đối đáp với văn thơ Đường Thục Hổ chẳng có là bao, trước giờ y chưa bại dưới tay ai, càng chưa bao giờ gục mặt cúi đầu với bất cứ ai.
Thế nhưng vị đệ nhất tài tử nước Khánh này lại phải hành đại lễ trước một tên vãn bối nước khác, càng là chuyện không ngờ tới, quả thực là phải trợn tròn mắt.
Nói về bọn thị nữ chúng đều không dám tin vào đôi mắt mình.
Trong lòng bọn nó xem Đường Thục Hổ như thần tiên, là người tài hoa vô cùng, đến vương công qúy tộc cũng không để trong mắt, khi đến phủ Quốc cữu dự tiệc cũng như đến chốn không người, đến cả Quốc cữu cũng không dám hó hé.
Một người như vậy nay lại hành đại lễ nhận thua trước một tên vãn bối nước khác, bọn cung nữ cảm thấy lạ lùng vô cùng không kìm được tính tò mò, đều quay lại chằm chằm nhìn Hàn Mạc.
Còn đứa thị nữ mài mực cho Hàn Mạc không kìm được, phải bịt mồm lại rồi mơ mộng: “ta vừa mới mài mực cho chàng, ta vừa mới mài mực cho chàng…!”.
Ngay lúc hết thảy mọi người đang kinh ngạc thì nghe thấy có một tiếng nói vang lên: “Ngươi… ngươi trộm thơ ở đâu ra?”
Mọi người nghe thấy đều hướng về phía tiếng nói phát ra, thì ra là một nhân sĩ tuổi tầm hơn 30, hắn với khuôn mặt hoài nghi rõ ràng là không tin bài thơ này là do Hàn Mạc làm, chỉ nghĩ Hàn Mạc trộm thơ ở đâu rồi đến đây ra oai tác quái.
Hắn đoán không sai ,đây chỉ là trò đùa lịch sử hơi quá trớn. Tô đại thần viết bài thơ này hiện nay đến cộng lông cũng không còn, thậm chí lịch sử cũng không còn vết tích nào chứng minh sự tồn tại của Tô đại thần, cho nên xét theo trật tự lịch sử, Hàn Mạc vẫn danh chính ngôn thuận là người sáng tác.
Đường Thục Hổ không nói một lời, quay người lại trở về vị trí của mình, y cầm cái ly bạc đi đến trước mặt vị nhân sĩ đó, không nói không rằng tạt nguyên cốc rượu vào mặt hắn, chửi lớn
– Ghen ghét hiền tài, làm nhục văn sĩ, đáng phạt!