Lý Bão Chân lại không biết quan hệ giữa Lý Khánh An và Hàn Tiến Bình, không khỏi chung hửng hỏi: “Hàn sứ quân đã từng gặp đại tướng quân bọn ta ư?”
Lý Tiển bên cạnh cười cười chen lòi: “Hàn trưởng sứ và Triệu vương điện hạ đã là lão bằng hữu rồi!”
“Cũng không thể nói là lão bằng hữu thân gì.”
Hàn Tiến Bình chi vuốt râu cười nói: “Nam ấy ta ba mươi mốt tuổ, vì phạm phải hình luật bị đày đến thủ bảo Túc Lâu phong An Tây tòng quân. Vào năm thứ ba thì hắn vào thủ bào làm hỏa trường. Ta chỉ là một tiêu binh dưới ta hắn. Ta cùng hắn cộng sự được một năm hơn, sau trận chiến Tiểu Bột Luật ta vì lập công được xá miễn, lại được trở lại Trung Nguyên. Sau lần đó, đã gần mười năm rồi.”
Lý Bão Chân nghe mà không khỏi kính nể, hóa ra vị trưởng sứ này cũng là lão tiền bối An Tây, hắn chấp tay thi lễ nói: “Hóa ra Hàn tướng quân cũng xuất thân tử thủ bào Túc Lâu phong, và còn tham gia qua chiến dịch Tiểu Bột Luật, thật thất kính quá!”
“Ha ha! Có gì đâu mà!”
Hàn Tiến Bình cười cười khoát tay, xong lại hỏi: “Không biết Triệu vương cần chúng ta chuẩn bị những gì?”
Một câu nói của hắn đã nhấc nhờ Lý Bão Chân, hắn xém chút đã quên chính sự, bèn vội nói: “Đại tướng quân lệnh chúng ta khống chế càng Giang Dương, quét sạch quân tàn dư của Lý Lân tại vùng Giang Bắc, đồng thời chiêu mộ thủy dũng, trưng tập thuyền bè.”
Quý Quáng Sâm gật gật đầu nói: “Bến càng Giang Đô này có mấy mươi vạn công nhân, kẻ giỏi bơi lặn không ít, có thể chiêu mộ thúy dũng trong đó. Thuyền bè có thể mượn tạm tàu vận chuyển, năm sáu ngàn chiếc cũng không thành vấn đề. Nhưng thứ này nha môn bọn ta có thể giải quyết được, chỉ là giải quyết quân tàn dư Lý Lân và khống chế càng Giang Dương thìphải nhờ Lý tướng quân rồi.”
“Không thành vấn đề, ta cũng có ý này, không nên để chậm trễ nữa, chiều nay chúng ta sẽ bắt đầu chia nhau mà tiến hành. Ngoài ra ta đang cần gấp ba mươi chiếc thuyền lớn, xin nhờ Quý thái thủ lập tức chuẩn bị. cho đợi sẵn tại càng Giang Dương.”
“Được! Ta sẽ lập tức chuẩn bị cho tướng quân!”
Chiều, vừa ăn cơm trưa xong, Lý Bão Chân và tư mã Lý Tiển bèn dẫn bốn ngàn quân phóng nhanh về hướng nam. Sau khi đi được mười mấy dặm thì bắt đầu chia quân ra hai lộ, Lý Tiễn dẫn tám trăm đoàn luyện binh lấy kỳ hiệu quân Bắc Đường tiến quân huyện Giang Dương, còn Lý Bão Chân dẫn ba ngàn kỵ binh ập về huyện Hải Lãng.
Huyện Giang Dương cũng đệ thuộc Dương Châu, cách Giang Đô ba mươi dặm về phía nam. nằm ở bờ bắc Trường Giang, còn huyện thành cách càng Trường Giang chỉ có hai mươi dặm. Do binh sĩ Bắc Đường không đủ, vì thế huyện Giang Dương chỉ có chừng trăm binh sĩ trú quâ, nhưng càng Giang Dương lại có bốn trăm thủy quân của Lý Lân. cùng mười mấy chiếc chiến thuyền, và cho xây một tòa thành bảo ven sông.
Lý Lân sở dĩ chiếm càng Giang Dương không chịu rút quân chính là hi vọng quân đội của Lý Khánh An cũng như lần trước, chi tạm chiếm Dương Châu vài tháng, như thế khi Lý Khánh An rút quân, quân đội của hắn sẽ có càng Giang Dương làm bàn đạp, có thể nhanh chóng ùa về.
Nhưng thủy quân Nam Đường trên càng Giang Dương lại chẳng xung sướng gì. Quân đội Lý Khánh An tạm thời không thèm đếm xia gì đến họ, họ cứ thế bị dằn vặt mỗi ngày, qua được ngày nào hay ngày đó.
Chiều ngày hôm đó, quân thủ càng Giang Dương nhận được tình báo, kỵ binh Bắc Đường đã trên đường đến cảng muối, có hơn ngàn người. Bọn họ đã sợ hồn bay phách lạc, không còn chút ý thức chống đỡ, lũ lượt chèo thuyền vượt sông, trốn về phía Nhuận Châu bờ bên kia.
Lý Tiển dẫn tám trăm đoàn luyện binh không cần đổ máu hay động đao kiếm đã chiếm được cành Giang Dương, nhưng Lý Bão Chân muốn chiếm càng Giang Dương chinh là để đoạt thông đạo thuyền tàu, một đội thuyền lớn ba mươi chiếc tổ thành một đội thông qua càng Giang Dương đi vào Trường Giang về hướng đông.
Lý Bão Chân thật sự muốn càn quét là huyện Hải Lăng, chính xác hơn là cù lao giữa sông của huyện Hải Lãng: Hồ Đậu châu.
Huyện Hải Lăng cũng chính là Tần Châu Giang Tô ngày nay, vào đời Đường thì vẫn trực thuộc Dương Châu, diện tích quản hạch rất lớn, về phía đông kéo thăng ra đến bờ biển, phía nam đến ven sông Trường Giang đều thuộc phạm vi quản hạch của huyện Hải Lăng. Nhưng căn bàn đều là ruộng muối và bến bãi, không có thành trấn thôn trang. Có một quan đạo cũng được dùng để vận chuyển muối, kéo dài đến bờ sông.
Tại bờ sông thuộc huyện Hải Lăng cũng có một bến càng,c hình là cảng muối nổi tiếng, mồi năm có hàng vạn thạch muối được lên thuyền tại đây, đi dọc sông Trường Giang vận chuyển vào các nơi trong địa lục, đồng thời đi về phía đông vào biến hài vận muối đến vùng phương bắc xa xôi.
Vào đời Đường Trường Giang khẩu khác xa với ngày nay. Từ vùng Giang Âm đã hình thành một hình ống loa khống lồ, như huyện Khởi Đông. Hải Môn ngày nay, đều là biển lớn. và chưa hình thành lục địa. Nam Thông ngày nay lúc bấy giờ mới chỉ là một cù lao giữa sông, lớn nhỏ tựa đảo Sùng Minh ngày nay, gọi là đảo Hồ Đậu. trực thuộc quản hạch của huyện Hải Lãng. Phía đông đảo Hồ Đậu chính là biển cả mênh mông.
Cảng muối và đảo Hồ Đậu trước mắt đều nằm trong khống chế của Lý Lân. đại bộ phận quân trú thủ nằm ở cảng muối, có năm ngàn người. Lý Lân không dám bỏ cảng muối chủ yếu là vì muốn không chế muối. Lợi nhuận thu được từ muối là một trong các nguồn quân phí chủ yếu của Lý Lân. Trong tình hình khống chế thương thuế của Lý Lân. lợi nhuận muối vừa nhanh vừa tiện, mỗi năm có thể mang lại nguồn thu nhập sần trăm vạn quan cho Lý Lân.
Vì thế mà cảng muối là vị trí chiến lược quan trọng với Lý Lân. đại quân của Lý Lân đã rút đến Giang Nam. còn duy cảng muối này hắn vẫn cho giữ lại năm ngàn trọng binh trú thủ. do đại tướng Nguyên Cảnh Diệu dẫn binh.
Nguyên Cảnh Diệu năm nay ba mươi lãm tuổi, vốn dĩ là một đô úy phủ đại đô đốc Dương Châu, thế gia tập võ, dùng cây thương sắt to dài một trượng rười. Thương pháp của hắn tinh kỳ, cơ hồ không có địch thủ tại vùng Giang Nam. Ngoài Lý Dịch con trai Lý Lân năm nay mới mười tám tuổi ra. hắn còn chưa gặp phải địch thủ nào.
Cũng vì nguyên do này mà Nguyên Cảnh Diệu rất ư tự phụ. hắn cực kỳ khinh miệt khi biết Lý Lân nghe tin quân An Tây đến mà bỏ chạy qua bên kia Trường Giang. Nguyên Cảnh Diệu thường nói với binh sĩ thũ hạ: “Quân An Tây tuy anh dũng, nhưng đó là ở Tây Vực, hay ở Trung Nguyên. Hà Bắc còn phát huy được uy lực. nhưng đến Giang Nam rồi, bọn họ chưa chắc là đối thủ của chúng ta. Tám mươi vạn quân Tào Tháo đấy thôi, cũng bị thùy quân Giang Nam dùng hỏa chiến đánh cho tơi bởi. Chúng ta tuyệt không thể nâng chí khí người khác lên mà hạ uy phongbản thân.”
Nguyên Cảnh Diệu tuy kiêu ngạo, nhưng mặt khác hắn cũng khá cẩn thận trong chiến thuật. Quân đội của hắn ngoài một ngàn người gác trên bờs bốn ngàn người còn lại đều đóng quân trên thủy trại, dùng thuyền làm doanh trướng, đóng trại giữa sông. Như thế này, nếu đại quân Bắc Đường mà đến tập kích, hắn tiến có thể công, lùi có thể thủ, thậm chí còn có thể rút quân qua sông bất cử khi nào.
Chiều ngày hôm đó, Nguyên Cảnh Diệu nhận được bẩm báo của xích hầu. phía tây bắc phát hiện một đội kỵ binh ngàn người, đương phóng vội về phía cảnh.
Hắn lập tức ý thức được, đây chắc chắn là quân đội của Lý Bão Chân đến bao vây minh.
“Bọn họ quả thật chỉ có một ngàn kỵ binh sao?”Nguyên Cảnh Diệu hồi hộp hỏi xích hầu.
“Bẩm tướng quân, không sai. quả thực chỉ có một ngàn kỵ binh.”
Nguyên Cảnh Diệu nghe mà động lòng, nếu như đối phương có ba bốn ngàn kỵ binh, có lẽ hắn còn không dám nghênh chiến, nhưng đối phương chỉ có một ngàn kỵ binh, hắn quả thật có phần lung lay.
Một tên quan thủ hạ khuyên giải: “Tướng quân, kỵ binh An Tây cực mạnh, nghe nói một kỵ binh có thể địch năm bộ binh, quân đội đối phương tuy không nhiều, nhưng được cái tinh duệ. Sờ trường của chúng ta là thũy chiến, bỏ sờ trường mà tòng sờ đoản là binh bại chi đạo! Tướng quân, phòng ngự thủy trại vẫn là thượng sách!”
Nguyên Cảnh Diệu để tay sau lưng đi tới lui. hắn đang suy ngẫm giả sử minh tiêu diệt một ngàn kỵ binh thì sao?Binh sĩ của Ngô vương đã khiếp sợ Lý Khánh An từ lâu. năm ngoái một ngàn thiết kỵ An Tây ập đến Cao Bưu. Ngô vương nghe danh đã bỏ chạy, năm vạn đại quân thủ hạ binh bại như núi đổ, khiến Nguyên Cảnh Diệu cảm thấy nhục nhã.
Không cần chất vấn. nếu hắn đánh bại được một ngàn kỵ binh trước mặt này sẽ cổ vũ rất nhiều cho sĩ khí của đại quân Ngô vương, bản thân hắn cũng sẽ trở thành trọng tướng của Ngô vương, có thể sánh vai cùng các đại tướng như bọn Lý Thành Thức…
Nguyên Cảnh Diệu phảng phất như đã nhìn thấy tiền cảnh huy hoàng của mình, lúc này thủ hạ của hắn khuyên can nên cấn trọng hành sự. hắn chỉ cảm thấy bực mình, giận dữ quở trách: “Binh giả. dũng giả! Không chiến mà sợ, thì còn gọi là binh gì? Ngươi bị quân An Tây đánh cho khiếp đảm. cứ ngờ binh sĩ thủ hạ của ta cũng sợ sệt như ngươi sao?”
Một quan quân khác cũng khuyên: “Nguyên tướng quân, thuộc hạ cũng cho rằng nên thận trọng hơn. tốc độ kỵ binh cực nhanh, một ngàn kỵ binh rất có khả năng chỉ là bộ đội đi đầu thôi, còn phần lớn binh mã ở đằng sau. xin tướng quân hãy suy nghĩ lại!”
“Đối phương chẳng qua có một ngàn kỵ binh, ta dùng nỏ chiến cường hàn của mình, nếu không đánh hạ được họ rồi rút về thủy trại cũng không muộn!”
Nguyên Cảnh Diệu vì một lòng muốn lập công, hắn không nghe khuyên giải khổ tâm của thuộc hạ. lại hạ lệnh: “Truyền lệnh từ đệ nhất đến đệ bát doanh lên bờ chinh quân, đệ cửu và đệ thập doanh lưu thủ thủy trại, sẵn sàng tiếp ứng.”
Nguyên Cảnh Diệu một tiếng lệnh hạ. bốn ngàn quân đội lũ lượt lên bờ, chi để lại một ngàn quân thủ thủy trại, chuẩn bị ứng tiếp họ lên thuyền bất cử khi nào.
Lý Bão Chân lúc cách cảng muối còn chừng trăm dặm đã chia ba ngàn kỵ binh của hắn ra làm hai, lệnh lang tướng thủ hạ Trịnh ùc dẫn hai ngàn kỵ binh vòng về phía đông, tùy cơ tiếp ứng. Còn hắn một mình dẫn một ngàn kỵ binh ập thăng đến cảng.
Tốc độ của họ chẳng nhanh, dọc đường vẫn không ngừng đốt kho muối. Tám mươi tòa kho muối mà Lý Lân xây đã bị họ đốt hết hai mươi mấy tòa. Lúc này đang mùa gió tây, khói nồng bỗng chốc che lấp cả đất trời cả một vùng phía tây của cảng. Trong không khí vẫn sặc mùi quái dị, lượng lớn khí độc do muối biền bị thiêu hũy sản sinh ra đã bao trùm cả cảng muối, cử như vũ khí hóa học. khiến quân đội của Nguyên Cảnh Diệu cảm thấy khó thở.
Nguyên Cảnh Diệu bất lực. chỉ đành để quân đội nhích dần sang phía bắc, xếp thành đại trận ngàn nỏ. Nguyên Cảnh Diệu tay cầm thiết thương đi ngựa đứng đầu. ánh mắt đầy kích động, chuẩn bị nghênh chiến kỵ binh An Tây.
Kỵ binh quân An Tây đã dần đến gần đại quân Nguyên Cảnh Diệu, nhưng Lý Bão Chân cũng chăng vội tiến công, hắn lệnh kỵ binh dừng bước ngoài năm trăm bước, giữ trạng thái xông kích, an binh bất động cùng quân địch.
Kỵ binh lần này đã áp dụng chiến thuật bầy sói hay dùng. dùng thời gian để đồi không gian. Kỵ binh biết được cung nỏ của đối phương lợi hại. cho nên cũng không vội tiến công, mà đợi cho sĩ khí đối phương tan biến, đợi đối phương không cầm cự được rồi sau cùng mới phát động tiến công. Cũng như bầy sói. có thể đợi mấy ngày mấy đêm. đợi cho con mồi đã không nhịn nổi. muốn bỏ chạy mới phát động truy kích, thậm chí dùng áp lực vô hình đế con mồi tự suy sụp ngã sục.
Kỳ thực đây chẳng qua là sự so tài về ý chí. xem ai sẽ cầm cự được đến cuối cùng.
Nguyên Cảnh Diệu hiển nhiên không có kinh nghiệm đối phó kỵ binh, hắn đã dàn nỏ trận quá sớm. cử nghĩ quân An Tây sẽ lập tức tiến thẳng lên chém siết, nhưng hắn không ngờ, quân An Tây không tiến công. mà cử đứng đấy chực chờ. Hắn đã rơi vào bẫy chiến thuật của quân An Tây.
Lúc này đã là tháng mười hai, trời rất nhanh tối. Một canh giờ sau. màn đêm dần buông xuống, gió rét tứ phía, hơi lạnh ập đến. bốn ngàn nỏ binh rét căm căm. ngón tay cứng đơ, có rất nhiều binh sĩ hai chẫn đã không còn đứng vững.
Nhưng họ vẫn không dám rút quân, sau lưng họ, hai ngàn kỵ binh còn lại đã lẳng lặng vây lên cắt đứt đường lui của họ. Ba ngàn kỵ binh đối với bốn ngàn bộ bịnh, kết quả trận chiến không cần nói cũng biết trước.
Chính ngay lúc này, Lý Tiển dẫn ba mươi chiếc thuyền to đến ngoài cảng muối.phong tỏa đường lui của thủy trại.
Nguyên Cảnh Diệu nhìn vào màn đêm. kỵ binh An Tây vẫn giữ được sát khí lẫm liệt kia. nhưng quân đội của hắn đã bắt đầu sĩ khí suy sụp, rất nhiều binh sĩ đều không còn giơ nổi nỏ cung nặng trĩu đó lên. lũ lượt quỳ xuống; sự tuyệt vọng nhanh chóng lây lan trong quân tình, đồng thời cũng ảnh hưởng đến nội tâm của Nguyên Cảnh Diệy. Trong lòng hắn cũng cảm thấy tuyệt vọng tương tự…
Nguyên Cảnh Diệu đang phải đối diện với lựa chọn tàn khốc nhất trong cả đời hắn. đầu hàng để được sống, hay sẽ lấy cái chết để tại ân đức của Ngô vương? Trong lòng hắn chua chát vạn phần, khó mà lựa chọn.