Kinh Lạc quả nhiên hiếu khách hơn Đại Thương nhiều! Vua chủ đích thân đón tiếp họ, sau đó còn niềm nở bày tiệc thết đãi thâu đêm. Khi nghe đến việc cầu thân, Vua chủ tủm tỉm cười, sau đó phất tay hạ lệnh, chẳng mấy chốc một dàn võ tướng trẻ tuổi tài ba đã được triệu kiến lên đại điện.
“Công chúa, từ từ mà chọn.” Hoàng đế ý nhị cười trước khi bãi giá rút lui trong êm đẹp, bỏ lại dàn tướng quân kia ngơ ngác nhìn nhau.
Chuyện gì đang diễn ra vậy???
Rốt cuộc sau một đêm “căng thẳng” trên điện, sáng ngày hôm sau, Trần Duy Hưng xoa tay bước ra khỏi cửa, miệng toe toét cười khà khà mà thông báo: tướng quân Liêm Thanh đã lấy thân mình đền nợ nước rồi!
Tống Hàn nghe xong thì lắc đầu: “Không được không được! Nhà nó đã giàu nhất nhì Kinh Lạc, giờ còn làm Phò mã Ly Quốc, sau này anh em chúng ta không còn đường sống với nó mất!”
Trần Vũ liếc hắn: “Biết vậy sao không tự mình ứng cử Phò mã Ly Quốc đi?”
Tống Hàn xua tay gạt đi: “Thôi, tôi không muốn lấy vợ xa, đi ở rể.”
Ấy vậy mà, Liêm Thanh nhất quyết không sang Ly Quốc ở rể. Chẳng hiểu hắn làm cách nào, sau vài lần gặp gỡ, Công chúa Ly Quốc cũng sống chết đòi ở lại Kinh Lạc làm dâu.
Sứ đoàn Ly Quốc chỉ còn biết vò đầu bứt tai. Má nó chớ, chuyến đi này lỗ quá!!!
Năm này, Khung Dực thỉnh thoảng sẽ xách theo vài vò rượu lê vàng rồi đi ra ba ngôi mộ nọ, ngồi xuống bên cạnh ngôi mộ của đại ca mình, kể lể cái này, than thở cái kia.
“Làm Hoàng đế mệt chết, chán chết đi được! Sao đại ca lại thích làm?”
Hắn nhăn nhó hỏi khoảng trống hư vô trước mắt, rồi hậm hực nốc cạn chén rượu đầy. Lần nào cũng chẳng có ai đáp lời Khung Dực, chỉ có tiếng lá xào xạc trên đầu. Vậy mà lần nào Khung Dực cũng cảm thấy nhẹ nhõm bình yên, sau khi trở về cung, tâm trạng bất giác tốt lên hẳn.
Năm thứ năm, Hoàng tử Trác Quân đã được ông ngoại Chu An và các vị Đại soái dạy cưỡi ngựa, dạy binh thư, được chú Vũ chú Hưng, chú Thanh chú Hàn dạy bắn cung, đấu vật, sau đó còn được mẹ dắt đi săn hổ ở dãy Hoành Sơn xa tít tắp. Trác Quân rất thông minh, nghe là hiểu, nghe là hiểu. Tóc của Tiểu hoàng tử cũng nhạt màu dần, khi đi ngoài nắng thì hiện rõ là màu nâu sẫm.
Những cái trộm nhìn len lén đã thôi không còn hướng về phía Trần Văn Chiêu. Bóng lưng hắn vẫn luôn thẳng táp hiên ngang như bách như tùng. Hắn vẫn đi theo sau lưng Đại công chúa, lặng lẽ canh chừng Tiểu hoàng tử trong mọi việc. Có lần Trác Quân ngã từ trên ngựa xuống, Vũ Miên còn chưa gấp, Trần Văn Chiêu đã gấp đến toát mồ hôi, môi mím chặt đầy căng thẳng.
Một buổi chiều kia, Khung Dực đang đi ra rìa Đại Mạc xem ngựa chiến mới thuần mà Khoát Oa Na Lạp đưa đến thì nhận được tin khẩn do khoái mã từ dải Chinh Sa cấp tốc mang về. Hắn giật mình không biết là việc gì, chỉ thấy binh lính dâng lên một hộp gỗ nhỏ. Khung Dực mở nắp hộp, bên trong là một phong thư ngắn gọn của Đinh Đại Đồng.
“Vườn chà là mà Hoàng tử đích thân trồng năm xưa, nay đã cho đợt quả đầu tiên.”
Khung Dực nhấc phong thư lên, bên dưới là một chùm quả vàng ươm, căng bóng, chợt thấy khóe mắt cay cay.
Hắn quay sang Khoát Oa Na Lạp, bảo tên này mang ngựa Khoát Oa thượng đẳng mà chạy về biên giới, giao chùm quả chà là căng mọng này cho Ngọc Huyên, sao cho khi đến Loa Thành quả vẫn còn tươi mới được. Khoát Oa Na Lạp cười khẩy nói, hình như món nợ ân tình năm xưa ta chưa có đòi đâu nha. Khung Dực liếc hắn, giao hàng thành công đi rồi tính tiếp.
Thế là chẳng bao lâu sau, Ngọc Huyên ở Loa Thành nhận được thư khẩn của Khung Dực, mở ra thấy một chùm quả vàng ươm như mật, bên cạnh là phong thư của anh với dòng chữ cứng cáp như vách sắt tường đồng.
“Em hãy trồng nó ở phương nam nữa nhé.”
Nửa tháng sau, họ hẹn gặp nhau tại rừng mận ngay biên giới.
Khung Dực vừa thấy Ngọc Huyên từ trong bước ra là bỏ mặc hết mà chạy đến, vừa ôm vừa hôn vừa dụi, mà Ngọc Huyên cũng nhiệt tình đáp lại, còn chủ động nhéo nhéo hai gò má rám nắng của Khung Dực, miệng thì xuýt xoa nhớ chồng quá đi.
Quan lại và võ tướng hai bên: hai vị à, bọn tôi vẫn còn đứng đây sờ sờ đó!
Sau một hồi thỏa thuê, Ngọc Huyên mới chậm rãi quay sang nhìn Khoát Oa Na Lạp nãy giờ vẫn đang đứng im một góc, đoạn cất lời:
“Ngươi có mong muốn gì cần Kinh Lạc đáp ứng?”
Khoát Oa Na Lạp chỉ chờ có thế, nói ngay và luôn: “Ta muốn mỹ nhân phương nam.”
Ngọc Huyên nhíu mày: “Là ai?”
Khoát Oa Na Lạp cười cười không đáp vội. Hắn bảo mọi người đi vào doanh trại ải Bạch Vân với hắn, mỹ nhân đang ở đó. Khi phái đoàn hai nước đến nơi, chỉ thấy Khoát Oa Na Lạp chỉ tay vào một chuồng voi chiến, dùng ánh mắt si mê mà nói:
“Ta muốn một cặp voi con, đem về Đại Mạc nuôi.”
Bao nhiêu lần hắn mạo hiểm lén lút vượt biên sang Kinh Lạc, thực chất chỉ để chạy đến ải Bạch Vân, trộm ngắm loài động vật vừa dũng mãnh vừa dịu dàng, lại còn thông minh và tình cảm này.
Khung Dực nghe xong liền cau mày gạt đi: “Không được!”
Tượng Binh là binh chủng độc nhất và đặc thù của Kinh Lạc, sao có thể để hắn mang voi về. Không ngờ Ngọc Huyên lại vô cùng bình thản, còn vui vẻ gật đầu:
“Được thôi.”
Khoát Oa Na Lạp ngỡ ngàng, quan lại cùng dàn võ tướng đều ngỡ ngàng chưa kịp mở miệng can ngăn, đã thấy Ngọc Huyên cười cười nói tiếp:
“Ngươi tự dẫn đi, bọn ta không giúp.”
Khoát Oa Na Lạp nghe xong sững ra, rồi chợt hiểu.
Muốn dẫn voi con đi, phải vượt qua voi mẹ, chưa kể con voi đầu đàn. Điều này cực kỳ khó.
Lúc này Ngọc Huyên mới từ tốn bảo:
“Ngươi thuần ngựa, chắc cũng phải hiểu đạo lý này rồi. Muốn nó theo ngươi, một lòng một dạ trung thành với ngươi, ngươi phải tự mình thuần lấy.”
Chỉ có điều, thuần ngựa mất vài tháng, còn thuần voi có khi lại mất vài năm. Kinh Lạc có bị lấy mất một cặp voi con hay không thì chưa biết, trước mắt chỉ thấy tộc Khoát Oa mất đi một tộc trưởng uy dũng thiện chiến về tay người phương nam đây này!
Khung Dực đứng ngẩn tò te bên cạnh, mãi mà không thốt nên lời.
Trời ơi, vợ mình giỏi quá đi mất! Dùng chính triết lý thuần mã mình dạy năm xưa mà ứng phó, rồi biết đâu còn thu được một tướng tài.
Ngày đó đã đến rồi, có phải không? Ngày em vươn mình trở thành tán đại thụ sum suê, vững chãi.
Vài ngày sau, Khoát Oa Na Lạp khăn gói lên đường sang ải Bạch Vân, bắt đầu hành trình thuần voi của mình. Đã có lệnh của Ngọc Huyên, thế nên không ai làm khó hắn. Vào đến chuồng voi rộng, phía trước còn là một cái ao trong veo, đập vào mắt hắn là hình ảnh một nam nhân trẻ tuổi, mình để trần, tóc vấn gọn sau đầu. Người đó đang cho voi tắm, còn giỡn nước ầm ĩ với bầy voi khắp mặt ao, cực kỳ vui vẻ.
Thân thể nam nhân trẻ trung rắn rỏi như tạc tượng, ánh nước loang loáng dưới nắng, đôi mắt thì lúc nào cũng vương ý cười.
Khoát Oa Na Lạp ngẩn ra, phút chốc thất thần.
Đây mới đúng là mỹ nhân thật sự!
“Ngươi là cái tên du mục Khoát Oa nào đó muốn dẫn voi của bổn tướng quân đi, có phải không?” Trần Duy Hưng rũ nước bước lên bờ, hất hàm hỏi hắn.
Khoát Oa Na Lạp nghe đầu óc lùng bùng như tơ rối, trái tim thì đập tưng tưng điên cuồng.
Thôi xong đời rồi! Yêu mất, yêu mất thôi!
Năm thứ sáu, Nhạn Quân đã hồi phục tám phần, lúc này lại đang tuyển đợt dân binh mới, tuyển người tiếp tục chinh tây. Hôm đó Khung Dực gặp Lăng Kỳ Anh đang về kinh báo cáo, liền vẫy hắn lại rồi vỗ vai mà hỏi:
“Sao, ngươi lại muốn đi có phải không?”
Lăng Kỳ Anh cười rồi xua tay: “Trời đất ơi Thống lĩnh, thuộc hạ còn đi đâu được chứ? Bây giờ Kỷ đại ca ở đâu thì thuộc hạ ở đó thôi.”
Kỳ Anh thỉnh thoảng vẫn giữ thói quen gọi Khung Dực là Thống lĩnh như ngày xưa, mà Khung Dực cũng không chỉnh hắn, lại còn trộm vui vui trong bụng.
Lần đi chinh tây kỳ trước, Kỳ Anh đã thu thập được rất nhiều thông tin lý thú về vùng đất rộng lớn phía tây kia. Mấy năm qua Khung Dực bận tối tăm mặt mũi, bây giờ thư thả mới có thời gian xem tới.
Khung Dực nhìn hắn rồi chợt hỏi: “Nhớ không?”
Kỳ Anh im lặng một chút rồi gật đầu. Nhớ chứ, sao lại không.
Đất trời rộng lớn bao la, thiên nhiên hùng vĩ. Cảm giác tự do đến mức sợ hãi, thế nhưng con tim vẫn giục giã dấn thân bước tới.
“Nhóc con, về hỏi Kỷ Phong thử xem. Biết đâu hắn lại đồng ý đi cùng ngươi đấy.”
Lúc quay về, Kỳ Anh ôm Kỷ Phong vào lòng, gục đầu vào vai y rồi dè dặt hỏi. Ai ngờ, y đồng ý ngay không do dự. Kỳ Anh ngỡ ngàng ngẩng lên, chẳng phải trước giờ huynh đều muốn ở lại đây giúp sức cho Thống lĩnh hay sao. Kỷ Phong đưa hai tay ôm lấy gương mặt hắn rồi bảo, lần này ta sẽ không để ngươi phải đi một mình.
Thế là năm đó, Khung Dực lại đích thân tiễn hai người bằng hữu lên đường chinh tây. Họ lại dẫn theo một lứa thiếu niên xán lạn, hồ hởi vượt qua vùng cỏ lau ngút ngàn, đi theo tiếng gọi của những miền đất mới.
Y hệt như ngày xưa.
Chỉ khác biệt là, lần này ta có người, người cũng có ta.
Năm này Trác Quân đã lớn, bắt đầu đọc sách viết chữ, còn săn được con cáo đầu tiên tặng mẹ. Màu tóc nâu của Tiểu hoàng tử càng ngày càng rõ nét, làm cho mấy ông già như Chu An, Tống Cơ Long và Trần Lượng đứng ngồi không yên. Bọn họ không dám hỏi Vũ Miên, chỉ đành kéo đến trước mặt Ngọc Huyên uống trà, xong lại ỡm ờ nói bóng nói gió.
“Là tóc nâu đấy!”
Ngọc Huyên buồn cười quá, chỉ đành an ủi đôi lời. Khi nào chị Miên muốn nói thì sẽ nói, mọi người đừng lo lắng nữa.
Mấy năm nay bá tánh hai nước bắt đầu thông thương, đi lại rất nhiều. Gạo nếp, vải vóc và hoa quả của Kinh Lạc đã đến tận bản làng trên Tuyết Nhạn, cũng như bảo thạch, thịt khô, trang sức và rượu nếp mật Kỉ Di của sơn tộc cũng đến được Thanh Châu, Lục Tĩnh, Loa Thành, rồi xuống tận vùng đồng bằng Thừa Thiên. Đúng như mong đợi của Ngọc Huyên năm xưa, Nam Biên trở thành nơi thông thương kinh tế ngay cửa khẩu với Đại Thương, càng lúc càng nhộn nhịp, ngựa xe ngày đêm qua lại như mắc cửi, liên miên không dứt.
Năm thứ bảy, Bàn Minh Sơn ở vịnh Lam Thủy làm ra một chuyện động trời.
Khung Dực đọc tấu sớ mà hắn đưa lên, trố mắt hỏi đi hỏi lại, ngươi có chắc không. Bàn Minh Sơn khảng khái gật đầu vỗ ngực, xin Bệ hạ ân chuẩn. Khung Dực nghe vậy gật gù, được thôi, ngươi đã dám tâu, ta đây dám duyệt.
Không lâu sau, Khung Dực và Bàn Minh Sơn dẫn đầu sứ đoàn Đại Thương đi sang Kinh Lạc, về tận Loa Thành, dâng lên sính lễ xa hoa trân quý, xin hỏi cưới Chủ quản Thủy Binh, Đại soái Nguyễn Giang. Vũ Miên nghe tin kinh ngạc không thôi, còn Nguyễn Giang thì đỏ bừng mặt mũi, cứ thế chạy lên đại điện mắng Bàn Minh Sơn sa sả. Chỉ có Chu An, Tống Cơ Long và Trần Lượng ôm nhau khóc òa, cuối cùng cũng có người chịu rước nó đi rồi!
Đó là hôn lễ đầu tiên giữa triều đình hai nước. Từ nay nam bắc một nhà, tương lai rạng rỡ dệt nên từ mười dặm lụa đỏ đưa dâu. Nguyễn Giang là thầy của Vũ Miên, thế nên Đại công chúa “gả” sư phụ đi vô cùng long trọng. Của hồi môn ngoài vàng bạc gấm vóc còn có ba trăm chiến thuyền, ruộng đất bạt ngàn thẳng cánh cò bay. Đinh Đại Đồng, Hoàng Cảnh đi ăn cưới mà lóa hết cả mắt. Ngay cả Lăng Kỳ Anh và Kỷ Phong cũng vượt ngàn dặm quay về chung vui.
Đại hôn diễn ra tại vịnh Lam Thủy, vô cùng long trọng. Đêm đó Ngọc Huyên rất vui, uống say mềm rồi cười cười nói nói, sau cùng lăn ra ngủ mất, báo hại Khung Dực muốn làm chuyện xấu nhưng cũng không làm được. Sáng ngày ra, Ngọc Huyên lại vòi Khung Dực dẫn mình đi thăm vườn chà là và vườn cây ăn trái của nơi đây. Từ những hạt giống đầu tiên y gieo trồng năm xưa, giờ đây cây trái lớn lên cao vút. Ngọc Huyên ngơ ngẩn nhìn những thân chà là xù xì sum suê trĩu quả, rồi lại quay sang nhìn Khung Dực, hai dòng nước mắt bất thần trào ra.
Nhìn xem, chúng ta đã đi được một chặng đường dài đến thế.
Năm thứ bảy này cũng có thêm một hỉ sự khác, đó là việc nhà Trần đại soái đón dâu.
Trần Vũ mặt mày u ám xô ngã Thùy Dung xuống giường, đoạn gầm gừ hỏi:
“Em cứ hết chạy đi hành y, rồi lại biệt tăm đi làm nhiệm vụ bí mật gì cho Công chúa. Thế là không được, phải cưới em, bắt em lại, giấu em trong nhà thôi!”
Thùy Dung cười rũ trên gối mềm, sau đó khoa tay “nói” cực nhanh với hắn:
Cho dù anh có cưới em, em đi vẫn đi thôi!
Trần Vũ không tin, thế là đem trầu cau trà rượu đi tìm Vũ Miên xin cưới Thùy Dung thật. Bạch Liên Ảnh Vệ đều là trẻ mồ côi, người làm chủ hôn sự nhìn đi nhìn lại cũng chỉ có Đại công chúa là thích hợp. Thùy Dung nhỏ nhất trong tám người, ấy vậy mà lại thành gia trước nhất. Năm đó, Vũ Miên lại lần nữa gả người đi.
Chẳng bao lâu sau, kinh thành nổ ra lời đồn, rằng Trần Lượng Đại soái đã có con dâu, còn là dâu trưởng, ấy vậy mà Tết nhất giỗ chạp lại chả thấy mặt đâu. Trần Lượng biết thừa nàng dâu có chân đi, rày đây mai đó, còn Trần Vũ thì cũng chiều vợ hết mức, chẳng dám nói gì. Em không thích làm giỗ ư, không sao cả, em cứ đi đi, nhớ về sớm với anh.
Năm đó, pháo nổ ngập trời, tin vui giòn giã.
Năm thứ tám, Khoát Oa Na Lạp vẫn chưa thuần được voi, không rõ là do voi Kinh Lạc khó thuần hay nam nhân du mục đó cố tình thuần không đặng. Cả ngày, hắn chỉ bám dính lấy Trần Duy Hưng. Khoát Oa Na Lạp trộm nghĩ, không thuần được voi cũng không sao, quan trọng phải thuần được người đem về Đại Mạc. Ấy thế mà voi đã khó thuần, người cũng khó thuần nốt! Trần Duy Hưng rõ ràng là cũng có ý với mình, cơ mà lần nào hắn mở miệng muốn đem y về Đại Mạc, y lại gạt phăng đi.
Trần Duy Hưng mặc kệ Khoát Oa Na Lạp nhăn nhăn nhó nhó, chỉ tủm tỉm cười rồi quay lưng. Đùa sao, ở Kinh Lạc đang sướng muốn chết, tự dưng lại mò về thảo nguyên ăn gió nằm sương! Anh đây tuấn tú nhưng anh đây không ngu, nhé.
Thời gian lại vùn vụt trôi. Ngọn gió thái bình thổi về muôn hướng. Ngựa xe qua lại mãi, trên những triền cỏ bao la của Đại Mạc, dưới những tán mận ngút ngàn, vó ngựa đã để lại con đường. Con đường cứ thế rõ dần, rõ dần, từ đường mòn biến thành đường lớn, từ đường lớn trở thành quốc lộ, thông thương hai nước. Chỉ có quân thần thân cận mới biết, con đường đó bắt nguồn từ những chuyến thư đi về của hai vị đế vương gửi cho nhau.
Trong hai năm cuối, lá cũng rụng về cội. Trần Lượng là người đầu tiên cưỡi hạc về trời. Trần Vũ kế thừa chức Đại soái của cha, trở thành Thống lĩnh Tượng Binh tân nhiệm. Niềm an ủi đối với Trần gia là, năm đó Thùy Dung hạ sinh được một cặp sinh đôi trai gái, mẹ tròn con vuông.
Chỉ vài tháng sau, Chu An cũng lâm bệnh nặng. Khung Dực ở Trích Nguyệt nhận được thư khẩn, lập tức bỏ hết mọi việc mà cưỡi chiến mã Khoát Oa ngày đêm chạy xuống phương nam. Chu An nằm trên giường thấy Khung Dực về thăm, đưa tay run run vẫy hắn lại dặn dò mấy câu. Xong xuôi, ngài mơ màng nói:
“Cha con đi trước ta đã tám năm rồi. Hắn… được gặp lại nàng trước tám năm. Giờ đến lượt ta hội ngộ cùng bọn họ.”
Đêm đó, Chu An qua đời. Đại tang được tổ chức cực kỳ long trọng. Hoàng tộc họ Chu chỉ còn Ngọc Huyên và Vũ Miên. Ngày cử hành tang lễ, Khung Dực được hạ nhân dâng lên một tấm áo tang màu trắng. Hắn không biết mặc. Ngọc Huyên bước đến giúp hắn mặc vào, vừa buộc khăn tang cho hắn vừa bảo, đây là áo tang cho con rể.
Ngày đưa tang, quan tài được đưa ra khỏi Loa Thành để hạ xuống hoàng lăng, bá tánh Kinh Lạc thấy Hoàng đế Đại Thương khoác áo tang của con rể, đầu bịt khăn trắng đi theo linh cữu, họ chỉ cúi đầu lau nước mắt. Lẫn trong đám đông có tiếng ai đó thì thào, tiếng kháo nhau nho nhỏ:
“Ngài ấy chính là Nhị vương tử Đại Thương năm xưa từ chối dẫn binh nam tiến đấy!”
Tang lễ xong xuôi, Khung Dực lưu lại Loa Thành vài ngày để cùng Ngọc Huyên và Vũ Miên cúng cái thất đầu tiên. Hôm đó vừa đúng là ngày rằm, cũng là ngày bá tánh phương nam đi chùa dâng hương. Trong những ngôi chùa của Kinh Lạc lại vang lên vô vàn lời cầu phúc dành cho Vua chủ Ngọc Huyên và Đại công chúa Vũ Miên, cho Tiểu hoàng tử Trác Quân, còn nhắc đến cả vị Hoàng đế Đại Thương kia nữa. Bá tánh bảo, cầu trời phật phù hộ cho họ một đời bình an. Họ đã vất vả nhiều rồi.
Năm đó, Khung Dực lần đầu tiên thấm thía rằng, thì ra hắn cũng có một gia đình ở phương nam.
Năm thứ chín, có một bầu không khí khẩn trương len lỏi trong triều đình hai nước. Trác Quân được Vũ Miên dạy rất nhiều điều quan trọng, Tiểu hoàng tử vì thế có vẻ già dặn đi trông thấy. Ngọc Huyên cũng bắt đầu có những động thái bàn giao quyền lực cho chị. Việc này gợi lên những cơn sóng ngầm nho nhỏ trên triều, những ai tinh ý đều thấy rõ.
Năm này, Lăng Kỳ Anh và Kỷ Phong được Khung Dực gọi về. Khung Dực bảo, sắp tới có lẽ sẽ có việc cần nhờ, hai ngươi chuẩn bị cho kỹ. Kỳ Anh và Kỷ Phong cũng ngao du đủ, tình cảm mặn nồng đến không thể mặn nồng hơn, khiến kẻ đang yêu xa như Khung Dực ghen tỵ đỏ cả mắt.
Nhân dịp cả ba người đều đủ mặt, Khung Dực, Kỷ Phong và Lăng Kỳ Anh quay về Khúc Băng thăm mộ Lý Tao Niên, Lê Quảng Mục và Lâm Sách. Xong xuôi, họ rủ nhau đi lên bản, xem tình hình sơn tộc sinh sống ra sao. Tại nơi này, họ gặp một người không ngờ tới, đó là Trần Văn Chiêu, cũng là Hồ Nhất Niệm năm xưa.
Thì ra Trần Văn Chiêu năm nào cũng quay lại Tuyết Nhạn vào dịp giỗ Hồ Kha, cũng về thăm nghĩa mẫu. Hồ phu nhân không hề trách cứ gì hắn, thậm chí còn có phần thương hắn nhiều hơn. Đứa con gái của Hồ Kha và Hồ phu nhân năm nay cũng tròn chín tuổi, luôn miệng gọi Trần Văn Chiêu nghĩa huynh ơi, nghĩa huynh à.
Đêm đó, bốn người cùng ngồi ăn thịt nướng, uống rượu nếp mật Kỉ Di. Vài tuần rượu trôi qua, Kỷ Phong chợt hỏi, vậy con rắn năm xưa là chúng ta giết nhầm ư.
Lúc này Trần Văn Chiêu mới từ tốn bảo, năm đó ta không nói với các ngươi, sơn tộc có lời truyền rằng, ai giết rắn thiêng sẽ bị thần linh quở phạt đó. Kỷ Phong càng không hiểu, chẳng phải chúng ta đều sống sót sau đại chiến năm xưa, hơn nữa bây giờ còn sống rất tốt đó sao. Rốt cuộc là phạt cái gì mới được?
Khung Dực nãy giờ vẫn lặng im, bấy giờ mới bảo, đã bị phạt rồi đấy thôi.
Phút chốc ai cũng chìm trong thinh lặng.
Tất cả bọn họ đều đã gánh chịu hình phạt của riêng mình.
Khung Dực thì trong một ngày mất đi gia đình, mất đi quê hương. Kỷ Phong thì mãi luôn dằn vặt bản thân năm xưa đã để Kỳ Anh lên đường chinh tây một mình để rồi lâm vào hiểm cảnh, mất đi nửa cánh tay. Còn Trần Văn Chiêu, Văn Chiêu hắn…
“Bị quở phạt thì đã sao?” Lăng Kỳ Anh vốn đứng ngoài cuộc chiến diệt xà, lúc này chợt thình lình lên tiếng. “Quan trọng là có hối hận không? Nếu thời gian quay ngược lại, mọi người có làm khác đi không kia chứ?”
Chiếu rượu lại im lìm.
Mãi một lúc sau, Khung Dực chậm rãi nâng chén rượu của mình lên kính ba người còn lại.
Không hối hận.
Trần Văn Chiêu, Kỷ Phong và Lăng Kỳ Anh cũng nâng ly.
Không hối hận.
Lăng Kỳ Anh vẫn sẽ lên đường chinh tây cho thỏa chí kiêu hùng. Kỷ Phong vẫn sẽ ở lại Đại Thương phò trợ Khung Dực, cứu Khung Dực một mạng khi hắn bị đem ra hành hình. Khung Dực vẫn sẽ lên núi diệt xà, vẫn từ chối dẫn binh nam tiến. Còn Trần Văn Chiêu cũng vẫn lại trở thành Hồ Nhất Niệm, lại chấp nhận mười năm tuyết trắng, miễn là Công chúa thành đại nghiệp trăm năm.
Tất cả bọn họ đều không hối hận.
Năm thứ mười, bốn cõi đã yên, bá tánh có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vua chủ Ngọc Huyên tuyên bố nhường ngôi cho Đại công chúa Vũ Miên, hoàn toàn rút khỏi triều đình Kinh Lạc.
Lúc này bá tánh mới vỡ lẽ, thì ra từ lúc đọc lời thề đăng cơ, Ngọc Huyên đã nhắc đến hai chữ “mười năm”, chính là vì ngày hôm nay. Ngay từ đầu, y đã quyết định chỉ trị vì mười năm mà thôi.
Vũ Miên lên ngôi Nữ đế, trở thành vị nữ chủ đầu tiên của Kinh Lạc trong vòng mấy trăm năm qua. Việc đầu tiên Nữ đế làm sau khi lên ngôi chính là công bố thân phận cha của Hoàng tử Trác Quân.
Đó là Đại vương tử Khung Tuấn của Đại Thương, người đã bỏ mình trong trận đại chiến năm xưa.
Hoàng tử vốn họ Khung, không phải họ Chu. Từ giờ về sau, tên ngài ấy là Khung Trác Quân. Trác của trác ngọc, Quân của quân vương. Điều này có nghĩa là, Hoàng tử chảy trong mình hai dòng máu đế vương. Ngài là hậu duệ của hoàng tộc Đại Thương, cũng là hậu duệ của hoàng tộc Kinh Lạc.
Nữ đế Chu Vũ Miên mũ miện sáng loáng, ngồi trên đại điện khẽ mỉm cười. Đã đến lúc đưa Hoàng tử quay về cố hương, nhận quê cha đất tổ.
Những cơn sóng ngầm trong triều đình Kinh Lạc cuộn lên khe khẽ, thế nhưng không thành công phá vỡ khí thế áp đảo của Nữ đế Vũ Miên. Lần binh biến thứ nhất của Kinh Lạc mà Vũ Miên dự đoán vào mười năm trước, rốt cuộc đã không xảy đến.
Một sáng mùa xuân năm đó, hoa mận nơi biên giới lại nở trắng đất trắng trời. Núi rừng Mạc Bắc lại chứng kiến một cuộc chia ly lịch sử, còn có cuộc đoàn tụ sau mười năm chia xa.
Vũ Miên dắt tay Ngọc Huyên và Trác Quân chầm chậm bước ra khỏi rừng mận, sau lưng có Trần Văn Chiêu theo hầu như mọi lần. Nắng xuân chiếu rọi, soi rõ từng bước chân người đi.
Khung Dực nhảy xuống ngựa, nhìn thấy bóng dáng những con người phía trước, phút chốc lại thất thần.
Lúc mới bắt đầu hắn đã từng nghĩ, mười năm thật dài.
Đến tận lúc này, khi đã đi hết chặng đường mười năm, Khung Dực mới biết.
Tháng năm rất ngắn, chỉ có đêm trắng mới dài mà thôi.
Là những đêm cô đơn trên Đại Mạc, dưới bầu trời lồng lộng gió hát và ngàn sao, cõi lòng lại tan hoang lạnh lẽo. Là những đêm một mình đi khắp các hành lang cung điện của Trích Nguyệt, từng nơi từng chỗ đều là bóng dáng của cố nhân. Thế nhưng cố nhân đã đi rồi. Là những đêm chong đèn tự hỏi, mình đã làm tốt chưa, liệu đã đi sai nước cờ nào, còn điều gì phải lo toan, suy nghĩ cho bá tánh?
Những đêm trắng đó luôn luôn là vô tận.
Còn tháng năm, tháng năm chỉ là một cái chớp mắt, là cái quay đầu, là những lần hoài niệm tất cả người xưa giờ đã tan thành tro bụi, là cái giật mình nhận ra những việc bản thân mình đã trải qua giờ lại hóa thành từng dòng từng dòng trong sử sách.
Trác Quân bước lại gần, mở cặp mắt tròn xoe nhìn Khung Dực. Nó đã gặp người này một lần trong đại tang của ông ngoại, mẹ và cậu Huyên còn dặn nó gọi người này là…
“Hoàng thúc.” Trác Quân lên tiếng gọi.
Khung Dực khom người khẽ xoa đầu nó, bàn tay còn chạm nhẹ lên những lọn tóc nâu, sau đó nhoẻn miệng cười.
“Chào con, Trác Quân.”
Vũ Miên ngồi xuống nhìn vào mắt Trác Quân rồi dịu dàng hỏi:
“Cậu Huyên của con từ giờ sẽ đi theo Hoàng thúc. Con còn nhớ lời mẹ nói không? Con muốn đi theo cậu Huyên, theo Hoàng thúc về phương bắc hay ở lại phương nam với mẹ?”
Ngọc Huyên cúi đầu nhìn ánh mắt Trác Quân, trong lòng chợt biết Trác Quân sẽ chọn cái gì.
“Sau này con còn gặp mẹ nữa không?” Trác Quân hỏi.
“Còn chứ, mỗi năm con đều có thể về thăm mẹ kia mà.” Vũ Miên bật cười. “Hơn nữa, bất cứ khi nào con nhớ mẹ, cứ quay đầu nhìn về phương nam.”
“Mẹ luôn ở đó.”
Sau khi Trác Quân chầm chậm gật đầu, Vũ Miên ôm con lần cuối rồi đứng dậy, giao Ngọc Huyên và Trác Quân cho Khung Dực.
Khung Dực chìa tay ra đón lấy bàn tay Ngọc Huyên, sau đó nhẹ nhàng và thành kính, đặt lên đó những nụ hôn thật mềm. Mười ngón tay thon, mười năm dành cho thiên hạ.
Chỉ còn nửa đời dành cho nhau.
Ngọc Huyên mắt hoe hoe đỏ, chậm rãi quay lại từ biệt Vũ Miên. Xúc động một hồi, vào giây phút y toan xoay người bước đi, nàng chợt đưa tay ra níu lại.
Soạt.
Vũ Miên gỡ chiếc khăn lụa trên trán Ngọc Huyên xuống, làm mái tóc đen huyền của y xổ ra, lấp lánh trong nắng sớm.
“Phải sống thật hạnh phúc nhé.”
Mười sáu năm đã trôi qua kể từ lần đầu tiên họ gặp nhau, cũng ngay tại nơi này. Khi đó Ngọc Huyên vừa tròn mười hai tuổi, Vũ Miên mười sáu, Khung Dực mười tám, còn Khung Tuấn thì hai mươi.
Mười sáu năm sau, người lại nắm tay ta, đưa ta vượt qua thảo nguyên cỏ vàng, rước ta về Vương Đô.
Ngọc Huyên nắm tay Khung Dực, tay kia thì đặt lên vai Trác Quân, chầm chậm xoay đầu nhìn về phương bắc.
Chặng đường về nhà mở ra thênh thang, đầy nắng.
– –
Hoàn chính văn.