Khung Dực tuyệt vọng gào lên, mà ở bên cạnh hắn, Trần Văn Chiêu cũng nghẹn ngào không kém.
“Kéo đi!!! Kéo!!!” Ở trên thuyền, Ngọc Huyên và những người khác lập tức ra sức kéo thang dây lên.
“Hai anh không được buông tay! Phải sống! Phải sống!!!” Y vừa kéo dây vừa lạc giọng mà gọi, nghe nửa như ra lệnh, nửa như van nài.
“Đi đi, sống cho tốt!” Hồ Kha nhìn theo Trần Văn Chiêu, cố gượng cười trong khi hai mắt thì đỏ hoe. “Giúp ta chăm sóc nghĩa mẫu và nghĩa muội của con nhé, Nhất Niệm!”
“Khung Dực!” Khung Vũ cũng gọi với theo. “Con phải sống thì Đại Thương mới không vong quốc! Nhớ kỹ!”
Những già làng sơn tộc móm mém nhìn theo rồi vẫy tay chào họ. Những lão thần của Đại Thương thì ngửa mặt lên trời mà cười một tràng dài. Bao nhiêu tiếng dặn dò với theo, hòa cùng tiếng sóng vỗ, tiếng gió reo mà lan đi muôn dặm.
“Nhớ nhé, phải sống! Phải sống!”
“Đi đi! Tương lai còn dài!”
“Phải sống! Ngày sau sẽ tốt hơn, con à!”
Lúc này, Khung Dực và Trần Văn Chiêu mới đồng loạt hiểu ra.
Ngay từ đầu, bọn họ đã không hề có ý định lên thuyền!
Đó là lý do vì sao Khung Vũ biết chắc Hồ Kha sẽ giữ lời thề. Nếu mai này sơn tộc muốn vùng lên phản bội, họ cần một người thủ lĩnh đủ mạnh, đủ sức thống lĩnh và hợp nhất bốn bộ tộc. Người đó chỉ có thể là Hồ Kha.
Mà bọn họ không hẹn mà gặp, đều quyết định nằm lại mảnh đất quê hương.
Một người là vua, nước mất nhà tan sao có thể nhởn nhơ sống tiếp. Một người là thủ lĩnh, huynh đệ đều bỏ mạng chuyến này vì quyết định tiến về Vương Đô của mình. Chỉ cần tộc nhân của hắn còn có tương lai là được, hắn cũng không mặt mũi nào mà lên thuyền rời đi.
Hoàng đế ở lại, lão thần cũng sẽ ở lại. Tộc chủ không đi, già làng cũng sẽ không đi.
Vả lại, chiếc thuyền đó không đủ chỗ cho bọn họ. Số phận đã an bài, bọn họ nên nằm lại Vương Đô.
Còn lớp trẻ, bọn chúng không nên chết ở đây. Bọn chúng không thuộc về nơi này.
Lớp trẻ phải sống tiếp.
Khung Dực và Văn Chiêu lên được thuyền, quay đầu nhìn lại bóng dáng của bậc cha ông, hai mắt đỏ ngầu, cổ họng đều nghẹn ứ. Ở bên cạnh, Ngọc Huyên cũng nghẹn ngào không thốt nên lời.
Vào đúng lúc đó, đúng lúc không ai ngờ tới, Tiểu Huyền chợt bật dậy rồi tung mình phóng qua mạn thuyền. Ngọc Huyên chỉ kịp nhìn thấy một chiếc bóng vụt qua, theo bản năng y nhoài người ra túm lấy, kết quả chỉ túm được một vạt áo rách soạt của em.
“A chaaaaa!!! A chaaaaaaaaaaaa!!!”
Ùm. Tiểu Huyền nhảy thẳng xuống dòng Vạn Kiếp.
“Tiểu Huyền!!!” Ngọc Huyên hét lên thất thanh, cả người chúi xuống suýt ngã, may mà có Khung Dực và Vũ Miên nhanh tay giữ lại.
Ở gần bờ, Khung Vũ giật mình thấy người con trai út chợt nhảy xuống nước rồi đang cố gắng chấp chới bơi về hướng của mình. Ngài hoảng hốt lao ra giữa dòng nước xiết. Hồ Kha và vài người khác cũng lao theo phụ giúp, sau một hồi vật lộn, họ cũng ôm được Tam vương tử lên bờ.
“Trời ơi, sao con lại nhảy xuống đây?” Khung Vũ ôm Tiểu Huyền, nghẹn ngào hỏi.
“A cha, không ai ở lại chơi với a cha hả? Con ở lại, con chơi với a cha nhé!” Tiểu Huyền vòng tay ôm lấy cổ ngài, dụi vào ngực ngài rồi cười nói.
“A cha bế cao, bế cao cao!”
Trong giây phút đó, Khung Vũ sững cả người.
Nước mắt tràn ra từ khóe mi ngài, không gì cản nổi. Ngài ôm siết đứa con trai này vào lòng, không màng gì nữa mà gục đầu khóc hu hu. Đứa con mà ngài vẫn luôn cho rằng nó là nỗi nhục, là niềm đau. Đứa con ngài vẫn luôn hắt hủi.
“A cha đừng khóc, a cha bế cao cao đi!” Tiểu Huyền sờ mặt Khung Vũ, đoạn híp mắt cười.
Khung Vũ ngửa mặt vừa cười vừa khóc mà nói:
“Thì ra ta một đời làm vương, đến trước lúc chết mới làm phụ.”
Lát sau, vị vua phương bắc chậm rãi cúi xuống, đưa tay vuốt ve gương mặt tươi cười của người con trai út, run run lau đi tro xám lãng đãng bay, lãng đãng đáp lên hai gò má của em. Một giọng nói từ quá khứ truyền về văng vẳng, xa xăm là thế, nhưng cũng rõ ràng như thế.
Người con trai thứ ba của ngươi, cả đời vô lo, mặc người cười khóc.
Ở trên chiếc thuyền đang trôi càng ngày càng xa, Khung Dực, Ngọc Huyên và Vũ Miên sững sờ không tin nổi. Sự việc diễn ra quá nhanh, vào đúng lúc chẳng ai ngờ.
Phụt.
Khung Dực chợt phun ra một ngụm máu tươi rồi lảo đảo, cả người từ từ khuỵu xuống. Nỗi đau quá sức chịu đựng của hắn mất rồi.
Ngọc Huyên vội vàng dang tay ra đỡ lấy hắn, khóc nấc ôm chặt hắn vào lòng, sau đó quay đầu nhìn về phía kia.
Trước khi thuyền rẽ ngoặt đi rồi ra khỏi khúc sông thuộc mảnh đất kinh thành, hình ảnh cuối cùng mà Ngọc Huyên nhìn thấy là Khung Vũ công kênh Tiểu Huyền trên vai mình, vừa cười to vừa đi vòng quanh trong bụi mờ, trong khung cảnh đổ nát của Vương Đô.
Bỗng dưng trong lòng y nổi lên một mong ước cháy bỏng đến mức đớn đau.
Tiểu Huyền, nhìn Ngọc Huyên ca ca, quay lại nhìn Ngọc Huyên ca ca một lần thôi!
Chỉ cần nhìn vào mắt y, Ngọc Huyên sẽ biết, y rốt cuộc là ai.
Thế nhưng Tiểu Huyền mải chơi, mải cười khanh khách, từ đầu chí cuối đều không hề quay lại lần nào.
Mãi cho đến sau này, khi rất nhiều năm đã qua đi, chuyện ngày hôm nay cũng chỉ còn là một màu ký ức rêu phong không ai nhớ rõ, Ngọc Huyên vẫn luôn tự hỏi: cái người quyết định nằm lại Vương Đô, đến sau cùng là Tiểu Huyền năm tuổi hay là Tam vương tử mười lăm tuổi?
Y mãi mãi cũng không biết được câu trả lời.
Thuyền nhẹ xuôi về phương nam.
Khung Dực không biết mình đã thiếp đi bao lâu rồi. Khi hắn mở mắt ra, đập vào mắt đã là Ngọc Huyên đang nằm bên gối. Dường như y không hề ngủ, trước sau vẫn luôn canh chừng hắn, tay thì dịu dàng ve vuốt gương mặt hắn, mái tóc nâu vàng của hắn.
Thấy Khung Dực tỉnh, Ngọc Huyên cũng không nói gì, chỉ chui vào lòng hắn rồi khẽ khàng vòng tay ôm.
Khung Dực gom y cùng chăn màn ôm vào trong ngực, đoạn đưa mắt nhìn lên.
Trên kia là một khung cửa sổ vàng rực nắng.
Có lẽ thuyền đang đi qua vùng đầm lầy phía tây trước khi nhập dòng Hoàng Giang rồi tiến vào địa phận Kinh Lạc.
Có lẽ, bấy giờ đang là hoàng hôn.
Khung Dực nằm ôm Ngọc Huyên thêm một lúc lâu. Nắng vàng bên ngoài vẫn chưa hề tắt.
“Có em đây rồi.” Ngọc Huyên chợt nói rất nhỏ.
“Ừm. Ta biết mà.” Khung Dực vuốt tóc y, dụi đầu vào hõm vai y rồi nhắm mắt.
Những lúc như thế này, đúng ra nước mắt sẽ trào ra ướt gối, ướt tóc mai. Thế nhưng không hiểu sao lần này lại khác.
Có cái gì nằng nặng như đá tảng, chắn ngang ngực, ngang cổ họng, không cho bất cứ thứ gì theo dòng cảm xúc mà trôi ra ngoài. Đôi mắt cứ thế ráo hoảnh, tâm trí thì cực kỳ tỉnh táo, chỉ có cõi lòng là hoang vu, héo tàn.
Hai người ôm nhau rất lâu sau, Khung Dực khẽ cựa mình rồi thử ngồi dậy.
Cơ thể vốn không bị thương gì nhiều, chỉ có mệt mỏi kiệt sức.
Và đau thương tầng tầng lớp lớp chất chồng mà thôi.
“Dậy nào.” Khung Dực khẽ đưa tay sờ lên má Ngọc Huyên.
“Ừm.” Ngọc Huyên cũng ngồi dậy, sau đó giúp Khung Dực rửa mặt, thay quần áo, còn húp nhanh một chén cháo nóng y đặt sẵn trong buồng từ lúc nào.
“Đi thôi, chắc chị em đang đợi.”
“Vâng.”
Hai người nắm tay nhau rồi cùng bước ra ngoài, sau đó đi lên mũi thuyền.
Con thuyền đang trôi rất êm. Hai bên bờ là một vùng lau sậy trắng trời trắng đất. Sông này nhỏ mà cạn, tiếng mái chèo khua vang lên rõ mồn một, hòa cùng tiếng côn trùng kêu rả rích bên ngoài và tiếng gió lùa biển cỏ lau rào rào, thênh thang.
Vũ Miên đang ngồi trên mũi thuyền, trước mặt nàng là một chiếc bàn con cùng một ấm trà đã nguội.
“Ngồi đi.” Nàng nhỏ giọng bảo.
Lát sau, Trần Văn Chiêu lặng lẽ xuất hiện, lặng lẽ thay một bình trà mới cho nàng rồi nhẹ nhàng đặt lên vai nàng một chiếc áo ấm may bằng vải bông dày. Xong việc, Văn Chiêu khẽ gật đầu với Ngọc Huyên và Khung Dực rồi lẳng lặng rời đi.
Khung Dực ngồi xuống, đoạn quay đầu nhìn theo dáng Trần Văn Chiêu vừa khuất.
Lúc ở bờ Vạn Kiếp hắn đã nhận ra thanh đại đao màu đen của người đó.
Vị tướng quân này chính là hắc y nhân lạ mặt đã giúp hắn và Kỷ Phong giết Hỏa Xà. Ngoài ra, vị này cũng chính là tên hắc y nhân ở thị trấn dải Chinh Sa năm xưa.
Mới đó mà chuyện đã cũ rồi, như đã cách đây rất lâu, rất lâu về trước.
Ở phía đối diện, Vũ Miên nãy giờ vẫn rủ mắt lặng im, lúc này chợt lên tiếng trước:
“Chị xin lỗi.”
Ngọc Huyên đưa tay vân vê chén trà trước mặt, sau đó khẽ lắc đầu:
“Em không trách chị.”
Y vươn tay ra nắm lấy tay Khung Dực rồi kéo qua đặt tay hai người lên đùi mình, sau đó còn dùng bàn tay kia phủ lên, vuốt ve bàn tay của hắn.
“Có sang Đại Thương, em mới gặp được anh.”
Ngọc Huyên ngưng một chút rồi lại nói:
“Nhưng mà từ nay về sau, cuộc sống của em sẽ do em làm chủ.”
Vũ Miên nghe xong thì mỉm cười, đoạn dịu dàng nhìn y rồi chậm rãi gật đầu.
Lúc này Ngọc Huyên mới lấy từ trong ống tay áo mình ra hai cuộn giấy to. Khung Dực giúp y dẹp bình trà sang một bên, chừa chỗ trống cho Ngọc Huyên trải giấy. Ngọc Huyên tháo dây buộc rồi bung hai tấm giấy ra bàn.
Bản đồ Kinh Lạc và Đại Thương hiện ra dưới nắng.
Xong xuôi, Ngọc Huyên chỉ tay vào một điểm trên bản đồ rồi bắt đầu nói. Y nói thật lâu, thật nhiều. Nói từ khi hoàng hôn thắp cháy bãi lau bãi sậy cho đến khi nắng tắt, trăng lên. Nói từ khi thuyền nhẹ xuôi trên con sông nhỏ của vùng đầm lầy hoang vu đến khi bắt đầu rẽ sóng đạp nước tiến vào làn nước trong xanh của dòng Hoàng Giang mênh mông, rộng lớn.
Khung cảnh hai bên bờ thay đổi, rồi lại đổi thay. Ngày lên, nắng rọi, rồi đến chiều hôm, mây về.
Khung Dực vừa nghe vừa nhớ lại lời phụ hoàng nói khi đó.
Những chuyện sau này, để sau này nói.
Hóa ra cái sau này đó đến nhanh như vậy.
Hóa ra cái cục diện của “sau này” đều nằm hết trên hai tấm bản đồ hôm nay, trong từng lời từng chữ mà ba người bọn họ cùng nhau suy tính, cùng nhau phân định sơn hà.
Rất lâu sau, khi Ngọc Huyên đã nói xong xuôi rồi, trong lúc Vũ Miên còn đang trầm ngâm suy nghĩ điều gì không rõ, Khung Dực mới ngập ngừng đánh bạo lên tiếng trước.
“Năm năm.”
Lời vừa nói ra, cả Ngọc Huyên và Vũ Miên cùng đồng loạt lắc đầu.
“Không được. Mười năm, phải ít nhất mười năm.”
Khung Dực nhịn không nổi một tiếng thở dài. Ngọc Huyên xót xa vòng tay qua ngang hông hắn, nghiêng người ngả vào lòng hắn an ủi, ôm ôm.
Thôi vậy. Khung Dực ôm lại y, cúi đầu hôn nhẹ lên mái tóc đen dày của y.
Dù sao hắn cũng đoán được.
Mười năm, ừ thì mười năm.
Đúng lúc này, Vũ Miên chợt lên tiếng:
“Còn một chuyện nữa.” Nàng đưa mắt nhìn thẳng vào Ngọc Huyên và Khung Dực rồi nghiêm nghị cất lời:
“Trong vòng ba mươi năm tới, rất có thể Kinh Lạc sẽ phải trải qua hai lần binh biến. Khi đó, Khung Dực, em nhất định phải sẵn sàng.”
Vài ngày sau, thuyền vào địa phận Kinh Lạc, chẳng mấy chốc cập bến Hoàng Giang.
Từ đây, đoàn người sơn tộc và bá tánh Đại Thương tị nạn được dẫn đi qua thành Nam Biên, sau đó vòng lên phía bắc, xuyên qua ải Bạch Vân để đến Mạc Bắc, quay lại Đại Thương. Từ đây, họ đi đường bộ.
Có vẻ như quan lại và dân chúng Kinh Lạc đã được căn dặn trước. Dọc đường khi đoàn người tị nạn đi qua, không ai làm khó dễ gì họ, cũng không có cờ hoa ăn mừng quân đội của Công chúa trở về.
Không có khải hoàn.
Nữ tướng Thạch Lan dẫn đoàn người Đại Thương và sơn tộc đi trước, Khung Dực và Ngọc Huyên đi sau cùng với Vũ Miên. Từ khi thoát khỏi Trích Nguyệt tới nay, Thạch Lan cứ buồn buồn, thỉnh thoảng khi ngồi một mình, đôi mắt còn hoe đỏ.
Vũ Miên và Trần Văn Chiêu cũng chỉ đưa Khung Dực và Ngọc Huyên đến Nam Biên. Từ Nam Biên, Công chúa sẽ quay về Loa Thành. Ngọc Huyên thì đi cùng Khung Dực quay về ải Bạch Vân để sang Mạc Bắc.
Ngày về đến ải Bạch Vân rồi từ đó đi vào rừng mận để sang bên kia biên giới, Ngọc Huyên và Khung Dực nhìn thấy hai người đang đứng đợi họ ở bìa rừng.
Ngọc Huyên và Khung Dực cùng nhau xuống ngựa, sau đó tiến lại phía Vua chủ Chu An và Đại soái Trần Lượng. Chu An thấy cả hai bước tới, ngài cũng sải chân đi sang.
“Cha.” Ngọc Huyên khẽ gọi.
Khung Dực nhìn Chu An, đột nhiên không biết nên gọi thế nào.
Chu An nhìn Khung Dực mà không ngăn được nỗi xót xa. Ngài đưa tay lên bóp bóp vai hắn vài cái, sau cùng vừa như an ủi, lại như động viên mà bảo:
“Thôi, ráng lên con.” Chu An ngừng một lát cho nỗi xúc động dịu đi, sau đó lại bảo:
“Chờ cha tầm nửa tháng.”
Khung Dực chợt thấy hai mắt mình cay xè. Hắn vội đưa tay dụi đi liên tục, khóc thì mất mặt quá thể. Thế nhưng càng dụi, mắt lại càng đỏ.
“Dạ.” Khung Dực quỳ xuống dùng lễ cha con lạy Chu An, giọng hơi lạc đi. “Con cảm ơn cha.”
Lại nhịn không được, gọi thêm một lần.
“Cha à.”
Khi Ngọc Huyên và Khung Dực dắt nhau đi rồi, Chu An và Trần Lượng còn đứng nhìn theo mãi.
“Ông nói xem.” Chu An trầm giọng bảo. “Mới đó mà chúng ta đã già đi hết cả.”
Trần Lượng cười, xua xua tay rồi nói:
“Uầy, không phải chúng ta già đi, mà là bọn trẻ lớn hết rồi.”
Hai ông già cứ thế đứng cạnh nhau nhìn theo bóng lưng hai người trẻ xa dần. Mãi mà chẳng thấy nét buồn trên mặt ông bạn vong niên của mình vơi đi bớt, Trần Lượng bèn tìm đề tài mà nói:
“Ông nghĩ xem có lạ không.” Vị Đại soái vừa chỉ tay về phía trước vừa cười. “Rõ ràng là địa danh ở cực nam của họ, thế mà tên gọi lại có một chữ ‘Bắc’. Chúng ta cũng thế. Rõ ràng là thành trì ở cực bắc, vậy mà tên gọi lại có một chữ ‘Nam’. Thế là thế nào?”
Chu An im lặng như đang suy nghĩ, hồi sau mới lên tiếng đáp lời:
“Chắc là do Nam Biên ở phía nam nước họ, còn Mạc Bắc thì ở phía bắc nước ta.”
“Địa danh của nước nào thì nước đó đặt tên chứ, sao lại đặt tên theo lối suy nghĩ lạ lùng như vậy?”
Chu An nghe vậy, chợt như đã nghĩ thông rồi. Ngài quay sang vỗ vai Trần Lượng rồi bảo:
“Có những chuyện không cần phân rõ làm chi. Nam nam bắc bắc, đúng đúng sai sai, sao cũng được.”
Trần Lượng gật gù cho là phải, sau đó cười xòa, rồi lại cùng Chu An nhìn về triền cỏ xanh ngát của Mạc Bắc bên kia.
Tiết trời đang xuân, nắng vàng, gió ấm.
Chỉ tiếc là hoa mận đã tàn.
Ngọc Huyên nắm tay đi cùng Khung Dực đến hết dốc đồi. Nãy giờ y vẫn cúi mặt không nói tiếng nào, Khung Dực đã ngờ rằng y sẽ khóc. Quả nhiên, lúc Khung Dực sửa soạn thắng yên ngựa rồi kiểm tra dây cương, Ngọc Huyên nhịn không được mà bật ra một tiếng nức nở dồn nén đã lâu.
“Anh có trách em không, có giận em không?” Ngọc Huyên nhào vào lòng hắn, vừa khóc vừa đứt quãng mà hỏi.
“Em xin lỗi, em xin lỗi, em xin lỗi… Đúng ra em có thể lựa chọn bỏ mặc hết mọi thứ mà đi theo anh, cùng anh quay lại Đại Thương. Nhưng mà… nhưng mà em không làm được.”
Y òa lên nức nở, hai tay bấu chặt lấy lưng hắn, nước mắt giàn giụa.
“Em làm đủ thứ chuyện vì thiên hạ, vì bá tánh mà không thể ích kỷ một lần vì anh, vì hai đứa mình… Em chọn rời xa anh khi anh cô đơn nhất. Anh ơi, anh có trách em không?”
Mấy ngày nay, Ngọc Huyên đã bị suy nghĩ này giằng xé đến nát bươm cả trái tim rồi. Lúc Khung Dực hôn mê, y hoàn toàn không ngủ mà chỉ nằm đó nhìn anh, nhìn mãi, cũng nghĩ mãi.
Về những niềm riêng. Về nỗi nước nhà.
Sau cùng, sự thật vẫn là sự thật. Anh có thể bỏ giang sơn vì y, nhưng y lại không thể vì anh mà bỏ giang sơn.
Khung Dực thở dài, vươn hai tay ra ôm chặt lấy Ngọc Huyên rồi dịu giọng dỗ dành:
“Việc của em là đi theo lý tưởng của em, làm những gì em tin tưởng.”
Hắn cúi xuống, dịu dàng lau đi nước mắt cho y, sau đó ghé vào tai y thì thầm:
“Còn việc của anh là yêu em. Và chờ đến ngày em quay trở về.”
Ngọc Huyên nghe xong lại càng khóc dữ dội hơn.
Khung Dực hết cách, đành phải bế y lên, rủ rỉ hát vào tai y, chọc cho y cười:
“Giai nhân hỡi… Ta đưa người về Vương Đô…”
Ngọc Huyên dù đang khóc vẫn bị nhột, thế là bật cười một cái, sau đó lại khóc.
“Ngoan nào, em đừng có như vậy. Chẳng phải trẻ con Kinh Lạc có bài hát gì đó hay sao? Vừa khóc vừa cười ăn mười cục…”
Khung Dực chưa kịp nói hết, Ngọc Huyên đã vội vàng bịt miệng hắn lại rồi hung hăng cắn một phát vào vai hắn.
Rõ đau. Rõ ngọt.
Lát sau, trên triền cỏ dốc xanh ngăn ngắt của Đại Mạc có một bóng người ngựa lao đi. Nam nhân trên lưng ngựa vừa đi vừa nghêu ngao hát thật to:
Về cùng ta dệt khúc lụa mềm
Uống trăng bạc, nghe gió hát
Ta lấy nửa đời mình làm gối
Ru cho người ngủ êm…
Đứng ở phía sau, Ngọc Huyên cũng nghe văng vẳng lời anh đang hát.
Y chạy theo vài bước, sau đó cũng bắt tay lên miệng làm loa mà hát với theo. Giọng hát kẻ ở người đi thế mà khéo làm sao, hòa thành một, được làn gió ấm mùa xuân nâng lên cao vút.
Về Vương Đô, về Vương Đô
Ta nướng bánh nóng, ta ủ rượu ngọt
Tay gảy đàn ngọc, tay dệt vô thường
Giai nhân hỡi
Ta lấy kiếp sau làm sính lễ
Dâng cho người vạn dặm non sông.
Trên triền cỏ dốc xanh ngát của Mạc Bắc buổi ấy, Vương tử lần nữa ngược lên phía bắc, mà em lần nữa xuôi về phương nam.
Khung Dực dẫn theo bá tánh của hắn đi mải miết, sau cùng về tới vùng trung Đại Mạc. Giữa biển cỏ vàng cháy mênh mông ngút ngàn là lều trại la liệt, bốn phương tám hướng đều là dân tị nạn, cuộc sống đói khổ xác xơ, tạm bợ ngặt nghèo không sao kể xiết.
Đúng như lời Vũ Miên đã nói, Thủy Binh của Đại soái Nguyễn Giang đã rút quân. Trước khi hạm đội rời đi, Nguyễn Giang còn cho thả thuyền nhẹ chất đầy lương thực, thuốc thang, chăn màn và lều trại vào bờ. Khi Bàn Minh Sơn bơi thuyền ra lấy vào, người nữ Đại soái đó đứng gác chân lên mạn thuyền nhìn xuống, đoạn cười vang rồi hỏi:
“Các hạ là Bàn Minh Sơn?”
Bàn Minh Sơn giật mình ngước lên, chỉ thấy bóng nữ nhân oai hùng đứng đó, sau lưng là lá chiến kỳ màu cam rực rỡ, chói đến mù con mắt. Hắn ngẩn ra, vô thức gật đầu.
“Ngươi cũng gan dạ lắm. Ta sẽ nhớ kỹ cái tên này.”
Nữ Đại soái cứ vậy rời đi, còn Bàn Minh Sơn thì tất tả vận chuyển hết mọi thứ về Đại Mạc.
Giờ đây trên mảnh đất nheo nhóc đó có bá tánh Vương Đô, bá tánh Khúc Băng, có cả tộc nhân sơn tộc còn sót lại. Khi thấy Khung Dực về đến, ai ai cũng ngừng tay rồi quay lại nhìn.
Kỷ Phong, Lăng Kỳ Anh, Đinh Đại Đồng, Bàn Minh Sơn, Hoàng Cảnh… Phía Kinh Lạc có Trần Vũ, Trần Duy Hưng, Tống Hàn, Liêm Thanh.
Một vài tiếng xôn xao dậy lên kèm theo không ít băn khoăn, bối rối.
Bây giờ… thì thế nào?
Khung Dực chậm rãi nhìn tất cả mọi người, từng người một, sau cùng ánh mắt hướng về đám lửa trại cực to ngay khu lều trung tâm.
Lăng Kỳ Anh đã làm đúng theo lời hắn dặn dò.
“Kỳ Anh, đốt lửa được bao nhiêu ngày rồi?” Khung Dực ngồi trên lưng ngựa hỏi lớn.
“Cũng vài ngày rồi, Thống lĩnh!”
Vậy chắc họ cũng sắp kéo tới rồi.
Khung Dực nghĩ thầm, vừa đúng lúc đó mặt đất chợt rung lên từng đợt.
Không phải động đất, không phải dư âm của cơn ác mộng Hỏa Xà xuất sơn. Đại Mạc đang rung lên vì trăm ngàn vó ngựa trên thảo nguyên cùng quy tụ về một mối.
Tất cả mọi người kinh ngạc nhìn quanh, duy chỉ có Khung Dực là bình tĩnh quay đầu lại.
Phía xa rầm rập ngựa phi. Dân du mục từ muôn phương trên Đại Mạc đều đang đổ về.
Khung Dực nheo nheo mắt nhìn muôn vạn sắc màu trước mặt. Y phục này, vũ khí này, răng sói này, hình xăm này… Đây là tộc Kháp Kháp chuyên làm mộc, tộc Du Lang chuyên dệt vải, tộc Chân Diệm chuyên điều chế hỏa dược và thảo dược, chưa kể ba bộ tộc thuần ngựa lớn nhất Đại Mạc, tộc Khoát Oa.
“Là ai cho đốt lửa gọi người?” Khoát Oa Mộc, một trong ba thủ lĩnh của bộ tộc thuần ngựa Khoát Oa quát lên hỏi.
“Là ta.”
Khung Dực giục ngựa tiến ra phía trước. Lúc này Kháp Tư cũng trông thấy hắn, nét vui mừng hiện rõ ra trên gương mặt.
“Các vị huynh đệ của Đại Mạc!” Khung Dực vận sức, dõng dạc cất lời.
“Chắc các vị cũng đã nghe được tin dữ của Khúc Băng, của Vương Đô. Tuyết Nhạn thức giấc, Hỏa Xà xuất sơn, kinh thành trở thành tử địa, bá tánh ba nơi không nơi nương tựa, không chốn dung thân.”
Im lặng vài giây, Khung Dực mới nói tiếp:
“Hoàng đế, Đại vương tử, Tam vương tử đều chẳng may bỏ mình, nằm lại Vương Đô cả rồi.”
Tất cả mọi người đều sững ra, sau đó biển người dậy lên một loạt âm thanh sụt sùi than khóc. Hồ phu nhân từ trong hàng ngũ tộc nhân sơn tộc bước tới, đường hoàng xác nhận những gì Khung Dực đã nói.
“Nếu theo lời sấm truyền, Đại Thương tới đây là diệt vong.”
“Thế nhưng hôm nay Khung Dực ta mạo muội gọi các vị tới đây, khẩn thiết mong các vị ra tay giúp đỡ. Trước giờ các vị sống tự do tự tại, không hề can thiệp hay màng tới việc của triều đình. Song, chúng ta giờ đây đã đứng trước cửa ngõ nước mất nhà tan.”
Khung Dực chợt từ từ đứng lên lưng con chiến mã của mình, sau đó phất áo choàng ra sau lưng rồi nói thật lớn, để cho gió mang theo giọng hắn tỏa ra bốn phía:
“Thảo nguyên này, đồng cỏ này, Tuyết Nhạn, Khúc Băng, Vương Đô, Trích Nguyệt, còn có dải Chinh Sa, Lam Thủy và Mạc Bắc. Tất cả đều là lãnh thổ Đại Thương! Tất cả chúng ta đều sống dưới vòm trời Đại Thương!”
“Thế nên, xin hãy giúp ta! Giúp ta gầy dựng lại quê nhà, tái thiết lại đất nước!”
Trong phút chốc, biển người im phăng phắc. Không ai nói gì, không ai phản ứng gì, nhất thời chỉ còn tiếng lửa cháy phừng phực đằng sau.
Bỗng nhiên, Khoát Oa Mộc bước ra khỏi hàng rồi cao giọng hỏi Khung Dực một câu:
“Ta nghe nói ngươi đã cúi đầu trước vị nữ chủ phương nam kia rồi?”
Khung Dực nhìn vị tộc trưởng Khoát Oa quắc thước kia, khảng khái gật đầu xác nhận. Khoát Oa Mộc cũng chưa vội nói gì, tuy nhiên môi lại khẽ nhếch lên, gương mặt phảng phất chút đắc ý, hài lòng.
Bài học đầu tiên của bậc đế vương, ngươi cuối cùng cũng học xong rồi đó.
Lăng Kỳ Anh là người đầu tiên quỳ xuống. Tiếp theo đó là Kỷ Phong, là Đinh Đại Đồng, Bàn Minh Sơn, Hoàng Cảnh, rồi là Nhạn Quân và Thủ Vệ Quân Vương Đô, Thủ Vệ Quân Trích Nguyệt. Sau nữa, đến bá tánh Khúc Băng, rồi bá tánh Vương Đô. Phía dân du mục, Kháp Tư kéo tộc nhân của mình quỳ xuống trước, theo sau là tộc Chân Diệm, tộc Du Lang. Hồ phu nhân cũng quỳ, xem như sơn tộc cũng đã xác nhận lời thề quy thuận.
Trên cả đồng cỏ cháy vàng ươm, chỉ còn ba tộc Khoát Oa chưa quỳ.
Khung Dực liếc mắt, sau đó dõi ánh mắt truy tìm Khoát Oa Na Lạp đang đứng lẫn trong đám đông. Khi ánh mắt chạm nhau rồi, Khung Dực thong thả nhìn hắn rồi kín đáo gật đầu, môi khẽ cong lên đầy cao ngạo.
Món nợ ân tình mà ngươi muốn, Kinh Lạc nhất định sẽ trả.
Khoát Oa Na Lạp thấy vậy thì tặc lưỡi, miệng tuy cười nhưng trong lòng thì thầm cảm thán. Chà, cái tên Khung Dực này cũng bắt đầu biết tâm cơ rồi.
Khoát Oa Na Lạp ngang nhiên quỳ xuống, kéo theo tộc nhân của mình. Khoát Oa Lý thấy thế, ngần ngừ một lát rồi cũng quỳ theo, sau cùng là Khoát Oa Mộc.
“Bệ hạ!”
“Bệ hạ!”
“Bệ hạ!”
“Bệ hạ!”
“Bệ hạ!”
Dàn tướng soái phương nam cũng nghiêm cẩn nhìn Khung Dực, sau đó đồng loạt khẽ cúi đầu.
Khung Dực nhìn biển người đang quỳ rạp dưới chân mình mà hô vang Bệ hạ, không hiểu sao trong lòng chỉ nhớ tới căn nhà nhỏ của hắn và Ngọc Huyên ở Nam Biên.
Cửa gỗ sơn son, tường xanh rêu phủ, gác mái nở hoa, mái đình cong cong làm chỗ uống trà.
Còn có một căn nhà khác trong trí tưởng tượng của hắn, một căn nhà hắn luôn ấp ủ sẽ tự tay xây cho em, tự tay giúp em trồng hoa, gieo quả.
“Bệ hạ!”
“Bệ hạ!”
“Bệ hạ!”
Gió thổi qua mang theo hơi ấm từ ngọn lửa đang hừng hực cháy trên mặt cỏ, cháy trong lòng người. Khung Dực biết, chặng đường đằng đẵng này chỉ mới bắt đầu.
Từ hôm nay, Chiến Thần bắt đầu gánh vác trên mình trọng trách gầy dựng lại cố hương. Từ ngay trên Đại Mạc, sự sống sẽ tái sinh. Như tổ tiên Đại Thương ngày xưa, hết thảy đều khởi thủy trên thảo nguyên cỏ vàng.