“Vậy, nếu không tìm ra tiên nhân thì sao?”
“A Trạch, đừng nghĩ đến tiên nhân nữa. Những người từng vào Kình Thiên sơn để tìm tiên nhân đều không hề thành công qua. Thậm chí, có rất nhiều người còn chưa từng quay trở lại nữa. Chúng ta đã đi trong núi lâu như vậy. Mọi người đều biết rằng, chúng ta không thể tìm ra tiên nhân đau.”
A Trạch lắc đầu.
“Trường Đông công đã thành công rồi mà. Ông ấy vào Kình Thiên sơn một mình và tiếp tục đi về phía Đông mà không quay đầu lại. Mọi người đều nghĩ ông ấy chết rồi. Nhưng nhiều năm sau, có người nhìn thấy ông ta ở tại quê nhà. Trường Đông công mặc tiên y trở về, tặng nhiều thứ quý giá cho người từng giúp đỡ ông ấy ngày xưa! Mọi người đều đã nghe về câu chuyện đó mà!”
Tấn Trường Đông – người gốc Đô Dương – tầm tiên là một câu chuyện dân gian được lưu truyền rộng rãi ở Đông Thắng quốc. Thế nhân đều gọi ông ta là Trường Đông công. Tại Đô Dương, còn có một ngôi từ đường mang tên Trường Đông, coi như đây là một câu chuyện cổ tích có chút dấu vết. Và câu chuyện này được phổ biến rộng khắp, dùng để khuyến khích mọi người phải có tính kiên trì khi làm bất cứ việc gì. Tất nhiên, sau đó cũng có rất nhiều người cố gắng đi vào Kình Thiên sơn hoặc những ngọn núi nổi tiếng khác để tìm gặp tiên nhân.
Nghe A Trạch nói vậy, A Long trực tiếp phản bác.
“Nhưng ngươi không phải là Trường Đông công! Theo truyền thuyết, vốn dĩ Trường Đông công sinh ra từ ngọc bích, bẩm sinh có thể nhớ rõ tất cả những gì đã từng gặp qua một lần, học cái gì cũng chỉ cần học qua một lần là hiểu rõ. Ai cũng bảo, ông ấy là thần nhân bẩm sinh, vốn dĩ không phải kẻ phàm trần! A Trạch, chúng ta cùng đi Đô Dương nhé!”
A Trạch lắc đầu.
“Gia gia nói, dù là Trường Đông công có cầu được tiên thật hay tiên giả, thì chắc chắn ông ấy không phải sinh ra từ ngọc bích đâu. Tất cả đều là do người dân Đô Dương hình tượng hóa lên mà thôi. Nếu trái tim kiên định, ai nấy cũng sẽ không bao giờ kém cỏi hơn Trường Đông công!”
A Long nóng nảy dần.
“Ngươi tự xem lại mặt mày và tay chân của ngươi đi, đều là vết thương cả! Trong núi có thú dữ và côn trùng độc, nếu không tìm được tiên nhân, ngươi sẽ chết!”
“Ta không biết. Ta sẽ tìm được tiên giới, tìm được tiên nhân. Hơn ba tháng trước, chúng ta đều nhìn thấy tiên quang trên Kình Thiên sơn mà, ai cũng thấy cả!”
Chính vì nhìn thấy tiên quang mà những thiếu niên và nhi đồng may mắn tránh khỏi một trận họa loạn binh đao này mới muốn vào núi, không chỉ để tránh tai họa, mà còn để tìm gặp tiên nhân.
Nhưng ba tháng vừa qua đã xóa tan ảo tưởng trong lòng mọi người. Hiện tại, chỉ có mỗi A Trạch là vẫn kiên định như vậy. Do đó, khi A Trạch nói ra điều này, A Long bèn đứng dậy.
“Đúng vậy, chúng ta đều đã nhìn thấy, nhưng thế thì sao? Nhìn thấy thôi thì chứng tỏ được gì? Ngươi cho rằng ngươi là ai? Vào núi một mình, không có người thay phiên gác đêm, ngươi có thể thức mãi không?”
“Gia gia ta nói…”
“Trang gia gia đã qua đời!”
“Ngươi!”
A Trạch nổi giận, đứng dậy rồi lao vào A Long.
“Ngươi không được phép nói như vậy, không được phép nói như vậy!”
A Long cũng rất tức giận, đánh nhau với A Trạch.
“Chính là, chính là, nếu như Trang gia gia còn sống, cũng nhất định sẽ ngăn cản ngươi!”
“Ông ấy sẽ sống, hắn sẽ sống, ta tìm được tiên sinh, hắn sẽ sống!”
“Đừng đánh, đừng đánh nữa! Đừng đánh nhau nữa!”
“Đừng đánh nữa mà, oa oa oa…”
…
Sau nửa ngày, năm người cùng nhau bước vào cuộc hành trình hướng tới phương Đông, không còn dấn thân sâu vào dãy Kình Thiên sơn nữa, mà chuyển tuyến đường về phía Đô Dương.
Thật kỳ lạ khi nếu đi sâu về phía thâm sơn, thời tiết đáng lý phải trở nên tồi tệ hơn mới đúng. Theo lẽ thường, nếu không là gió lớn mưa to thì cũng là sấm sét đì đoàng, lạnh lẽo ẩm ướt, hoặc bị bụi gai hay thú dữ cản đường. Nhưng hiện tại, mọi thứ đều đã thay đổi, thay đổi theo xu hướng cực kỳ thuận lợi. Đường đi có vẻ dễ dàng, thỉnh thoảng lại còn có từng dòng suối vắt ngang. Ngay cả thời tiết cũng đa phần là trời trong gió mát, càng dễ nhận diện phương hướng.
Khoảng nửa tháng sau, một nhóm năm người này cuối cùng cũng đến được rìa Đông của Kình Thiên sơn.
Nhưng không ai hoan hô náo nhiệt sau cơn phấn khích ngắn ngủi này cả. A Trạch tự đeo dây từng trên lưng, kiên quyết quay vào trong núi lần nữa.
Cũng đã khuyên, đã mắng, đã đánh nhau cả rồi, ai cũng rõ A Trạch sẽ không hồi tâm chuyển ý.
…
Chỉ vừa qua một ngày rưỡi ngắn ngủi trên Cửu Phong sơn; giờ phút này, Vân Hà uyển trông vẫn như thường nhật, ngay cả cổng của sảnh khách cũng đang mở toang. Nhưng trên thực tế, nơi đây đang có một tòa đại trận bao phủ và tất cả các đệ tử của Cửu Phong sơn đều được yêu cầu không thể đến gần Vân Hà uyển. Đương nhiên, lần này không phải là luyện pháp bảo, cũng sẽ không có ý cảnh Tam muội Chân hóa khiến tất cả mọi người không thể ở lại Tiên Lai phong như khi trước, mà chỉ là mọi người không đến gần Vân Hà uyển mà thôi.
Trong lần soạn sách này, trên bàn có đầy đủ văn phòng tứ bảo, còn có hơn trăm ký tự nhỏ đang lóe ra từng vầng sáng vàng rực rõ. Chúng đang vờn quanh Kế Duyên. Khác hẳn với trạng thái ồn ào thường ngày, đám chữ nhỏ đều tự sắp xếp bản thân ngay ngắn, lặng lẽ, trông rất có chừng mực.
Kế Duyên nhắm mắt hồi lâu, thoáng chốc lại mở mắt ra, cầm bút chấm mực, sau đó trực tiếp đặt bút viết lên mặt giấy.
“Hư phân thành Âm Dương, Thực phân thành Ngũ hành; đạo của Thiên Địa Vạn vật Hóa sinh…”
Khi Kế Duyên bắt đầu viết, những ký tự nhỏ xung quanh bắt đầu kết trận, và một màn sáng mờ nhạt xuất hiện xung quanh án thư. Trên dưới trăm ký tự nhỏ biến hóa với tốc độ cực nhanh. Nếu nhìn kỹ có thể thấy rằng, từng trận thế mà chúng tạo ra lại vừa vặn hợp thành với từng chữ mà Kế Duyên đang viết. Vào lúc này, sảnh khách của Vân Hà uyên sáng lên rực rỡ, cứ như thể mỗi chữ do Kế Duyên viết ra sẽ tạo nên một con chữ vàng y hệt nhưng lớn hơn giữa không trung xung quanh.
Trạng thái của Kế Duyên vào giờ phút này rất thần kỳ. Một mặt, hắn bỏ ra rất nhiều tâm lực vào việc viết chữ, hành văn trên mặt giấy. Mặt khác, hắn dường như đã biến thành thân thể khổng lồ kia bên trong ý cảnh, đứng trên Tiên Lai phong, nhìn Vân Hà uyển, cũng nhìn đến bản thân mình đang viết chữ trên giấy kia.
Dường như chỉ có bản thân Kế Duyên mới có thể cảm nhận được pháp tướng khổng lồ này, còn đa phần các tu sĩ Cửu Phong sơn cũng không phát hiện ra.
“Có lẽ sau khi hoàn thành quyển thiên thư Luyện khí này, nửa phần sau của ‘Thiên Địa Diệu Pháp’ cũng sẽ tự hình thành nên ý tưởng!”
Nguyên bản, Kế Duyên cho rằng, phần quan trọng nhất của “Thiên Địa Diệu Pháp” chính là Thiên Địa Hóa Sinh của nửa bộ đầu. Nhưng sau lần luận đạo năm người về Âm Dương Ngũ Hành trong dịp luyện khí vừa qua, tầm mắt của Kế Duyên lại được nâng lên lần nữa. Đồng thời, lần luận đạo này thật ra cũng rất phù hợp với thiên ý, có thể hiểu được ảo diệu của thiên địa. Nửa phần sau của “Thiên Địa Diệu Pháp” cũng trở nên không hề đơn giản như Kế Duyên từng nghĩ trước đây, và như thế là vẫn chưa tính đến cảm ngộ tương quan với khúc Đạo Ca – một yếu tố có khả năng dung nhập vào.
Bởi vì nhiều tác động đa tầng như vậy, không khó để Kế Duyên có thể tưởng tượng ra rằng, những người thực sự tu tập được bộ “Thiên Địa Diệu Pháp” hoàn chỉnh có lẽ sẽ hiểu rõ hơn chân ý bên trong quyển thiên thư Luyện khí. Dù sao đi nữa, nó vẫn có chung nguồn gốc ở một mức độ nào đó. Đương nhiên, dễ là có dễ, nhưng khi bắt đầu tu hành cũng sẽ gặp phải khó khăn muôn trùng.
Pháp tướng hư ảo này cũng giống như một tâm cảnh mang góc nhìn khác của Kế Duyên; nó có thể bao quanh khắp nơi để ôm lấy thiên địa. Trong lúc Kế Duyên liên tục đặt bút, pháp tướng đột ngột nhìn lệch về phương Nam.
Đây là một cảm giác rất kỳ quái, giống như thị giác nhưng cũng không phải thị giác. Tựa như, hắn có thể nhìn thấy thời tiết ác liệt ở vùng núi xa xăm, lại càng có thể cảm giác được một cỗ chấp niệm mạnh mẽ.
Ngoại trừ đạo đài trên đỉnh núi tại Thiên Đạo phong của Cửu Phong sơn, tầng dưới của vị trí đó cũng là một khu đạo tràng để tu hành. Hiện tại, chưởng giáo của Cửu Phong sơn cũng đang đứng chắp tay phía trước tĩnh thất của mình, ngắm nhìn Tiên Lai phong từ xa xa. Trông lão như có vẻ đang rất thanh tĩnh, nhưng trên thực tế là đầu óc đang suy nghĩ liên tục.
Vào thời khắc pháp tướng của Kế Duyên chuyển đổi ánh nhìn, chưởng giáo Cửu Phong sơn cũng chợt quay sang hướng Nam, nhìn về phía xa xa.