Thị vệ chỉ lên căn nhà ở sườn núi, nơi có dòng suối chảy ngang trước cửa, nói với Tạ Dung Dữ: “Bẩm điện hạ, chính là nơi này.”
Nghe thấy tiếng gõ cửa, Ôn Thiên đích thân đi ra mở cửa. Ông đã nhận được bái thiếp của Tạ Dung Dữ từ trước, vẫn luôn đợi y đến, vừa thấy y, lập tức biết ngay thân phận của y.
Mời người vào nhà ngồi xuống, Ôn Thiên chà xát hai tay đứng giữa nhà, mấy lần mở miệng nhưng rồi lại nuốt xuống.
Tạ Dung Dữ khiêm tốn nói; “Nếu Ôn tiên sinh có chuyện gì khó xử thì cứ nói thẳng với vãn bối, không chừng vãn bối có thể giúp một tay.”
“Cũng không phải khó xử gì.” Ôn Thiên do dự, “Có chuyện này hẳn điện hạ chưa biết, vợ nhà tôi mới qua đời bốn tháng trước vì bệnh, trước đó Ôn mỗ xin nghỉ ở Trung Châu cũng là vì chuyện này, bây giờ về nhà thủ tang chưa đến một tháng, thực sự không tiện rời đi.”
Tạ Dung Dữ ngạc nhiên: “Hóa ra có chuyện như vậy.”
“Phải ạ.” Ôn Thiên ngượng ngùng, “Vợ nhà tôi đổ bệnh từ năm ngoái, sợ tôi ở xa bận tâm nên bảo con gái giấu tôi. Nửa năm trước bệnh tình của bà ấy ngày một nặng, con gái mới khẩn cấp viết thư cho tôi. Chỉ là hành cung Trung Châu xây ở trong núi, đường khó đi, thư từ tới chậm, đến lúc tôi về thì bà nhà tôi đã qua đời từ lâu.”
Tạ Dung Dữ nghe thế, đứng dậy bái lễ Ôn Thiên, áy náy nói: “Không biết Ôn tiên sinh mất vợ, lại còn lỗ mãng viếng thăm, lỗi vãn bối đường đột. Nếu đã vậy, vãn bối xin phép không làm phiền nữa, hôm nay quay về dịch trạm, vãn bối sẽ nhanh chóng báo lên Quan gia, xin chọn một thợ mộc khác cho Tiển Khâm đài. Dẫu sao người cũng đã mất, người còn sống vẫn cần phải sống, mong Ôn tiên sinh nén bi thương.”
“Không, điện hạ hiểu lầm rồi.” Ôn Thiên thấy Tạ Dung Dữ cáo từ, vội vàng ngăn lại, “Điện hạ hiểu lầm ý của Ôn mỗ rồi. Có chuyện này chắc điện hạ không biết, vợ nhà tôi chính là con gái của Nhạc Xung, Nhạc thị Hồng Anh. Như điện hạ nói đấy, người mất cũng đã mất rồi, Ôn mỗ còn sống, có thể dốc hết sức làm chuyện gì đó vì bà ấy là giấc mộng mà Ôn mỗ khó cầu. Nếu Tiển Khâm đài được dựng để tưởng nhớ các tướng sĩ đã mất bên sông Trường Độ, vậy Ôn mỗ sẵn sàng tham dự.”
Ôn Thiên nhìn ra sau nhà, dừng bước nói: “Nhưng Ôn mỗ chỉ lo Tiểu Dã buồn.”
Tạ Dung Dữ nghe hai chữ “Tiểu Dã” thì ngạc nhiên hỏi: “Ý Ôn tiên sinh là lệnh thiên kim?”
“Vân, chính là con gái nhà tôi.” Ôn Thiên nói, “Sau khi bà nhà tôi qua đời, con bé cùng sư phụ nó an táng cho bà ấy, một mình ở nhà đợi tôi ba tháng thì tôi mới về. Lúc ấy nó nói với tôi, nó chỉ có một yêu cầu duy nhất, những năm qua tôi bận bịu bên ngoài, chẳng mấy khi ở cùng vợ, cho nên muốn tôi thủ tang vợ ba tháng, mà lúc này vẫn chưa hết ba tháng… Thưa điện hạ, thực chẳng giấu gì, từ lâu khi hay tin triều đình muốn đổi đền thờ Tiển Khâm thành Tiển Khâm đài, Ôn mỗ đã muốn tự tiến cử mình, lúc đó Ôn mỗ cũng đã nói chuyện này với con gái, nhưng trông con bé có vẻ rất thất vọng, không hiểu cho quyết định của Ôn mỗ.”
Tạ Dung Dữ nghĩ ngợi, nói: “Hay là dời kỳ hạn công trình lùi thêm hai tháng nữa?”
“Không được!” Ôn Thiên quả quyết, “Đài dựng ở sườn núi, vốn đã chẳng dễ xây, cộng thêm núi Bách Dương vào Hạ lại càng mưa liên miên, đào mương thế nào, ngăn lũ ra sao, đều phải đo đạc lại lần nữa, thời hạn xây dựng đã rất cấp bách, nếu còn lùi nữa, chắc chắn sẽ không kịp.”
Đương lúc khó xử, một học trò bỗng từ sân sau chạy vào nhà, nói với Ôn Thiên: “Không xong rồi thầy ơi, Tiểu Dã nghe nói người của triều đình đến mời ngài nên đã thu dọn tay nải, bảo là muốn bỏ nhà ra đi!”
Ôn Thiên biến sắc, vội nói với Tạ Dung Dữ: “Tôi xin phép được đi xem thế nào.”
Tiểu Chiêu vương cành vàng lá ngọc đã bao giờ gặp chuyện như thế, y cảm thấy cha con hai người họ tranh chấp là do mình, nên ngồi trong nhà mà chẳng khác gì ngồi trên bàn chông.
Chốc lát sau, quả nhiên ở sân sau vọng tới tiếng cãi vả của hai cha con…
“Con đi tìm sư phụ con? Ngư Thất ở tận sâu trong rừng, con đi một mình có biết nguy hiểm lắm không!”
“Vẫn còn tốt hơn là sống ở đây! Mẹ đi rồi, cha còn muốn đi xây nhà cao cửa rộng cho người ta, nhà không còn là nhà, con ở lại làm gì!”
Thị vệ bên cạnh lên tiếng: “Điện hạ?”
Tạ Dung Dữ lập tức đứng dậy, đi ra sau nhà.
Lúc bấy giờ mới qua ngọ, nắng thu nhạt nhòa chiếu rọi, Tạ Dung Dữ đi tới cửa, thấy chiếc bóng cô đơn của Ôn Thiên đứng trong sân, sau cửa có một cô nương mười ba mười bốn tuổi xoay lưng đứng thẳng, nàng mặc áo trắng thủ hiếu, tóc dài tựa thác được buộc thành đuôi ngựa, vóc dáng rõ nhỏ bé nhưng lại đeo một thanh kiếm lớn vô cùng.
“Con đi đi! Nếu mà đi thì đừng có về nữa!” Ôn Thiên tức giận.
Tiểu Dã có chấp niệm, ông cũng có chấp niệm của mình, ông đã bỏ lỡ lần cuối gặp Hồng Anh, trong lòng hối hận đau đớn không thôi, trong lòng ông, Tiển Khâm đài là xây vì Hồng Anh.
Nhưng con gái không chịu hiểu cho ông.
Thanh Duy xoay mặt đi, giọng ráo hoảnh: “Con cũng không định về.”
“Được. Từ nay trở đi…” Ôn Thiên vừa tức vừa buồn, “Từ nay trở đi, con không cần nhận ta làm cha nữa, từ nay trở đi, con không còn mang họ Ôn nữa!”
Thanh Duy nghe vậy thì quay phắt người lại, giơ tay áo lên lau mắt, bước đi thẳng mà chẳng hề ngoái đầu.
Học trò thấy thế toan đuổi theo, nhưng bị Ôn Thiên gọi về: “Để nó đi, không cần phải theo!”
Học trò có thể không đi, nhưng Tạ Dung Dữ không thể không đi, y cảm thấy chuyện này là do mình nên rất áy náy, bèn đuổi theo ra cửa gọi Thanh Duy: “Cô nương!”
Nhà họ Ôn xây trên sườn núi, Thanh Duy đi rất nhanh, chỉ chốc lát đó thôi đã sắp đến cây đa già dưới núi.
Giữa khoảng rừng xanh thẳm, nàng ngoái đầu nhìn lại.
Chàng trai gọi nàng rất tuấn tú, nhưng nàng không quen y, nên ánh mắt nàng không dừng ở y mà sượt qua y, nhìn lên ngọn núi sau lưng y.
Song, ánh mắt của Tạ Dung Dữ lại dừng trên người Ôn Tiểu Dã.
Đấy là một tiểu cô nương vô cùng xinh đẹp, mặt mày trong sáng, thêm một nét đâm thừa, giảm một nét lại thiếu.
Gió núi rì rào, lùa vào mái tóc xanh của nàng, nâng tà váy trắng bay bay.
Tạ Dung Dữ muốn nói gì đó với nàng, nhưng vào khoảnh khắc ấy, y trông thấy ánh mắt nàng nhìn ngọn núi, là ánh mắt trống trải đầy đơn côi, và cũng kiên cường đến đau đớn.
Bỗng y hiểu ra, sau khi mẹ qua đời, tự tay tiểu cô nương này đã an táng cho mẹ, rồi một mình chịu tang trong buồn bã cô độc, đợi cha về ròng rã ba tháng trời.
Mọi câu nói vừa đến bên môi đã lập tức biến mất, Tạ Dung Dữ cảm thấy, nếu chưa từng đích thân trải qua đau thương thì mọi lời khuyên đều thừa thãi.
Chỉ là kể từ khi ấy, ánh mắt đó của Ôn Tiểu Dã đã in dấu trong lòng Tạ Dung Dữ, kể cả về sau Ôn Thiên có khuyên y: “Tiểu Dã nó nhìn bướng bỉnh thế thôi, chứ thực ra con bé rất hiểu chuyện, đợi Tiển Khâm đài xây xong, chắc chắn nó sẽ vui lắm cho xem, kiểu gì cũng đến ngắm.” Tạ Dung Dữ không tài nào quên nổi.
Nhưng rồi rất lâu về sau, khi Tiển Khâm đài đổ sập, y vùi thân dưới đài, trong lòng chỉ nghĩ có một điều, tốt nhất tiểu cô nương đó chớ nên tới làm gì, mà giả như… nàng ấy đến thật, ta đành phải nói với người khác rằng, ta có thấy nàng, và nàng đã chết rồi…