Ngày mới hửng sáng, mọi người đều thức dậy.
Tần Đạo Gia đuổi Tiểu Tần về.
Tiểu Tần cúi đầu không nói lời nào.
Lộ Vô Quy phát hiện hắn thỉnh thoảng liếc mắt nhìn nàng, ánh mắt đó làm nàng luôn cảm thấy hắn cất giấu ý xấu.
Bọn họ ăn lương khô, thu dọn xong đồ đạc liền đi về phía giếng Hoàng Tuyền, để Tiểu Tần ở lại.
Đi được không bao xa, Lộ Vô Quy liền lờ mờ cảm giác được có người theo sau, nàng quay đầu nhìn thì không thấy ai.
Sau nhiều lần lặp lại, Du Thanh Vi hỏi nàng: “Làm sao vậy? Đằng sau có cái gì kì lạ sao?”
Lộ Vô Quy liếc nhìn Tần Đạo Gia, không lên tiếng. Xung quanh đây một con quỷ cũng không có, lại không có người ngoài, có thể đi theo đằng sau chỉ có Tiểu Tần. Nàng thầm nghĩ: “Ba con quỷ kia muốn giết chết anh, tôi tuyệt đối không ngăn cản.” Nàng nhìn sang ba người Quỷ Đạo, chỉ thấy bóng lưng mải miết đi đường của ba gã Quỷ Đạo, không nhìn ra bọn họ có phát hiện Tiểu Tần đi theo đằng sau hay không. Nàng cảm thấy ba người bọn họ cảnh giác không kém hơn mình, chính mình có thể phát hiện, bọn họ hẳn cũng có thể phát hiện.
Ban ngày đi đường nhanh hơn ban đêm nhiều, con đường mấy chục dặm đại khái chỉ đi hơn một tiếng thì đến.
Trong thôn âm u đặc biệt hiu quạnh, lá bùa rách nát run rẩy trong gió lạnh u ám, lá bùa bị thổi rơi xen lẫn rác thải tạp vật bị gió thổi cuốn lên trời xoáy vòng, tăng thêm mấy phần ma quái.
Địa phương âm khí nặng, ban ngày ma quỷ có thể lộng hành, chí ít quỷ nhiếp thanh dám xuất hiện vào ban ngày trong khí trời kiểu này.
Nhưng có lẽ là bởi vì nơi này có giếng Hoàng Tuyền âm khí rất nặng, quỷ đều tiến vào giếng Hoàng Tuyền, ban ngày trong thôn cũng rất là sạch sẽ.
Lộ Vô Quy không biết đến cùng thôn này hoang phế đã bao lâu, chỉ thấy những cái cây chết héo trong thôn đã mục nát, ngã xuống mặt đất nát thành gỗ vụn. Nhà cửa trong thôn đều là nhà ngói bằng gỗ kiểu cũ, đều đã tàn tạ, sụp hơn một nửa, chỉ có số ít nhà chỉ sụp mái, còn có một vài mái nhà chưa sụp được vách tường chống đỡ trong gió rét lảo đà lảo đảo thỉnh thoảng phát ra vài tiếng “cọt kẹt”.
Tần Đạo Gia than thở: “Ba mươi năm Hà Đông, ba mươi năm Hà Tây*, xem kiến trúc và kết cấu của thôn này, trước đây hẳn là một đại thôn nhân khẩu dồi dào.” Ông lại đi tới trước hai đôn đá đặt song song, nói: “Xem cổng chào này, thôn này ít nhất là vào đời Thanh đã có người ở.” Ông đánh giá bốn phía, nói tiếp: “Tiền hữu chiếu (sông), hậu hữu kháo (núi), núi xanh nước bao quanh, Du Long quay đầu ẵm minh châu, Chu Tước tung cánh rọi chính đường. Trước đây thôn này ắt từng sinh ra quan to quý nhân.”
(*đây là ngạn ngữ Trung Quốc, dùng để cảm thán thế sự biến đổi thất thường.)
Lộ Vô Quy nghe không hiểu, quay đầu liếc nhìn Tần Đạo Gia, trầm mặc đi đến giếng Hoàng Tuyền.
Giếng Hoàng Tuyền cũng không ở chính giữa thôn, mà là ở gần đầu thôn, bên cạnh còn có một căn nhà lớn xây gạch xanh rất khí phái, đã nhiều năm như vậy, gian nhà bên cạnh đã đổ gần hết, căn nhà gạch xanh này vẫn đứng vững vàng tại đây.
Hoành phi trên cổng chính xiêu xiêu vẹo vẹo rủ xuống trước cửa, muốn rơi cũng không xong, niên đại xa xưa, nước sơn bên trên cũng bị mất, nét chữ mờ nhạt đến mức chỉ có thể miễn cưỡng nhìn ra phần sau viết hai chữ “Từ đường”.
Cánh cửa đã đổ, đứng ở cổng chính là có thể nhìn thấy giếng phong thủy đối diện.
Giếng phong thủy này âm khí rất nặng, ban ngày còn có âm khí bốc ra ngoài, tôn lên vẻ âm u khác thường của nhà lớn gạch xanh này.
Nàng nghe thấy Tần Đạo Gia thở dài, quay đầu nhìn lại, thầm nghĩ: “Ông than thở cái gì?”
Du Thanh Vi nhìn thấy bộ dáng không hiểu của Lộ Vô Quy, thấp giọng nói với Lộ Vô Quy: “Chỗ này vốn được coi là vùng phong thuỷ bảo địa, nhưng từ đường và giếng phong thủy xây sai vị trí, lại nhìn kiến trúc, phong cách, vật liệu của từ đường này khác với nhà trong thôn, chứng tỏ là xây sau, dời từ đường từ chỗ khác tới đây. Rõ ràng là có người lợi dụng từ đường và giếng phong thuỷ này để phá hủy phong thủy trong thôn, có thể giở trò thế này tất nhiên là làm nghề phong thuỷ, không biết thù hận lớn bao nhiêu mà hạ độc thủ này, tai họa liên đới mười mấy thôn xung quanh.”
Lộ Vô Quy “Ồ” một tiếng, trực tiếp đi đến chiếc giếng nọ trong từ đường. Nàng duỗi đầu đến bên giếng, cúi đầu nhìn, chỉ thấy trong giếng đen thẫm hiện ra thủy quang. Trên thành giếng nhẵn bóng sạch sẽ như mới vừa lau, ngay cả chút rêu xanh cũng không có. Địa khí men theo thành giếng mà trào ra ngoài, trên thành giếng đọng lại một tầng hơi nước rất dày, hội tụ thành giọt nước chảy xuống theo thành giếng. Miệng giếng âm dương này còn âm hơn nhiều so với miệng giếng trong sân nhà nàng, còn có một loại cảm giác quái dị làm cho nàng nói không rõ cũng tả không rõ được.
Nàng lấy chiếc giếng ở sân nhà mình so sánh với chiếc này.
Ban ngày, nàng thấy chiếc giếng trong sân nhà mình chính là một chiếc giếng nước bình thường, không khác gì với mấy chiếc giếng khác trong thôn. Còn chiếc giếng trước mặt này thì lại có vẻ rất cuộn trào nước, nhưng trong giếng lại yên tĩnh đến cực kỳ quỷ dị. Có địa khí trào ra bên ngoài, chứng tỏ phía dưới có nguồn suối, hoặc là miệng giếng đang rỉ nước ở trên, như vậy đáy nước tất nhiên không yên ả, nó sẽ làm cho trong giếng có dòng nước rung trào rất nhỏ, nói cách khác tiếng động là truyền ra từ phía trong, nhưng giếng này…
Lộ Vô Quy khó mà nói, chỉ cảm thấy quái dị, rất quái dị.
Nàng cau mày, trầm ngâm nhìn chằm chằm cái giếng này, càng nhìn, dưới đáy giếng càng đen, không nhìn thấy cái gì, thậm chí không đánh giá được giếng này sâu bao nhiêu.
Nàng có một cảm giác rất mạnh, đó chính là có thứ to xác cực kỳ nguy hiểm ẩn núp dưới giếng, không thể xuống!
Vật sống xung quanh ba mươi dặm chết hết, ngay cả cây cũng chết hết, nhưng giếng này thì sống, còn phả ra địa khí, chứng tỏ phong thủy của nơi này chưa tận.
Một ý nghĩ nhanh chóng lóe lên trong đầu nàng, dọa nàng hét to một tiếng: “Có người rút ra phong thuỷ xung quanh để nuôi miệng giếng này!” Nàng hét xong, liền cảm thấy mình hô lên một câu không đầu không đuôi như vậy có chút không ổn, lại nhìn bốn phía, chỉ thấy mọi người đều nhìn về phía nàng. Nàng rụt cổ một cái, yếu sức nói: “Tôi nói linh tinh thôi.”
Du Thanh Vi tiến đến bên người Lộ Vô Quy, nói: “Em là nói dưới đáy giếng này có thứ gì?”
Lộ Vô Quy “Ể” một tiếng, không biết nên nói như thế nào. Đây chỉ là một loại cảm giác của nàng.
Quỷ Nhất thâm trầm nói: “Thây máu hộ bảo.”
Lộ Vô Quy không hiểu, hỏi: “Có ý gì?”
Quỷ Nhất nói: “Có thứ tốt.”
Long sư thúc nói: “Thừa dịp ban ngày, đào ra thây máu giết xong hẵng nói.”
Tần Đạo Gia thì lại lấy ra la bàn đi tới đi lui trong sân mà suy tính. Ông tính mấy lần, lại nhìn sang Lộ Vô Quy, hỏi: “Tiểu hữu có thể nhìn ra phương vị thây máu không?”
Lộ Vô Quy hiểu ý nghĩ ‘cháu nhìn ra được ông sẽ không tính nữa’ của ông. Nàng lắc đầu với Tần Đạo Gia. Nàng hiểu vọng khí, không hiểu tìm xác dò mộ.
Bộ dáng của ba người Quỷ Đạo kia rõ ràng không tin được Tần Đạo Gia, tản ra, tìm kiếm xung quanh.
Du Thanh Vi nói với Lộ Vô Quy: “Mượn la bàn Định Tinh của em dùng một lát.”
Lộ Vô Quy mở ra ba lô, đưa la bàn của nàng cho Du Thanh Vi.
Tả Tiểu Thứ tới ngồi xuống bậc thang, nói: “Tôi nghỉ ngơi.” Lại bắt chuyện với Lộ Vô Quy, nói: “Tiểu Quy Quy, em có muốn nghỉ một lát không?”
Lộ Vô Quy nhìn một lúc, hình như không có việc gì cho nàng, cũng ngồi lên bậc thang cùng Tả Tiểu Thứ.
Tả Tiểu Thứ có lẽ là người tính tình rảnh rỗi không chịu nổi, ngồi chưa tới hai phút liền đứng dậy chạy vào nhà chính từ đường ở phía sau.
Lộ Vô Quy thầm nghĩ: “Nơi cúng bài vị của tổ tiên có cái gì hay mà dạo chơi.” Thoáng nhìn Tả Tiểu Thứ, rồi lấy ra thịt bò khô bắt đầu gặm. Nàng mới vừa nhét một miếng bò khô lớn vào trong miệng, thì nghe thấy tiếng thét căng cổ của Tả Tiểu Thứ truyền đến: “Mẹ nó, chỗ này nuôi quỷ à!” Sau đó nhìn thấy Tả Tiểu Thứ vọt ra ngoài như chạy thoát thân.