Kế Duyên trả lại tấm thiệp mời cho Doãn Thanh.
“Cất kỹ nhé! Nếu ngươi lại đòi nạp thiếp, tiên sinh ta đây cũng sẽ không viết thêm bất cứ lời chúc nào khác nữa đâu.”
“Y dám à?”
Thường Bình công chúa véo mạnh Doãn Thanh một cái, sau đó đứng dậy, hành lễ với hắn theo kiểu vạn phúc*.
(Hành lễ theo kiểu vạn phúc là cách chào của phụ nữ dân tộc Hán ngày xưa, bằng cách cung hai tay hờ lại với nhau, xá nhẹ lên xuống ở vị trí phía dưới bên phải lồng ngực, đồng thời hơi cúi đầu, mang ý nghĩa cung kính cầu chúc người đối diện được nhiều phúc phần.)
“Vì tiên sinh cũng là trưởng bối, thế nên cứ gọi con là Bình Bình hoặc Bình nhi là được.”
“Cũng tốt, nếu sau này chỉ có riêng chúng ta ở đây, ta sẽ gọi con như vậy.”
Doãn Thanh chợt vỗ đùi, nhanh tay xách vò rượu nhỏ dưới gầm bàn lên.
“Kế tiên sinh, hai vò rượu nhỏ này chính là Thiên Nhật Xuân ủ hai mươi năm dưới đất đấy. Chúng con tốn công tốn sức lắm mới mua được từ Viên Tử Phô đó. Con biết tiên sinh thích uống, nên đặc biệt mua lấy để hiếu kính cho tiên sinh.”
Kế Duyên cũng cười “ha ha” lên.
“Ông chủ của tiệm Viên Tử Phô kia cũng khôn ngoan lắm. Nếu là hai mươi năm trước, Thiên Nhật Xuân ủ đất hai mươi năm cũng thật sự rất khan hiếm. Nhưng bây giờ, dù là rượu ủ hai mươi năm nhưng thực tế cũng chưa hẳn là ủ đúng ngần ấy năm. Lần sau, con cứ tìm loại ủ trên ba mươi năm ấy; dù gì đi nữa thì dùng bổng lộc của con vẫn đủ mua mà.”
Doãn Thanh cường điệu than một câu.
“Không phải như tiên sinh nghĩ đâu! Bổng lộc của con chỉ ít ỏi như từng đầu ngón tay vậy!”
…
Vốn dĩ, Doãn Thanh và Thường Bình công chúa định dùng bữa ở một tửu quán trong huyện, nhưng cuối cùng là ở lại ăn tối tại Cư An Tiểu Các, còn do Kế Duyên đích thân vào bếp nấu nướng.
Khi rời đi, trời đã nhá nhem tối, tuy rằng căn nhà cũ của Doãn gia thỉnh thoảng có người đến trông nom, nhưng rõ ràng là không thích hợp để ngủ lại. Vì vậy, bọn họ vẫn nên đi đến khách điếm trong huyện thành.
Ra khỏi phường Thiên Ngưu, ngửi thấy mùi thơm của hoa táo trên đường đi, Dương Bình khẽ hỏi Doãn Thanh.
“Quan nhân, Kế tiên sinh thực sự là một vị thần tiên à? Ngài ấy có thể hô mưa gọi gió, hoặc giúp cho mọi người trường sinh bất tử hay không?”
“Ta cũng không rõ, vì chưa bao giờ thấy tiên sinh thi triển phép thuật như vậy. Tôi chỉ biết rằng, ngài ấy là vị trưởng bối luôn khiến ta cảm thấy rất an tâm. Khả năng hô mưa gọi gió, hay giúp người khác trường sinh bất lão có quan trọng hay sao? Khi còn bé, tiên sinh từng nói quá, rằng chuyện trường sinh bất lão chưa bao giờ là điều mà ngài ấy mong muốn.”
Dương Bình ngập ngừng mãi, cuối cùng mới hỏi đến một vấn đề luôn đeo bám trong lòng nàng.
“Vậy thì, liệu muội có thể nói chuyện này cho phụ hoàng nghe được không?”
Nghe vậy, nét mặt của Doãn Thanh cũng không thay đổi như Dương Bình đang lo lắng. Thay vào đó, y nhìn nàng với một nụ cười.
“Chuyện này cũng không có gì gây hại đến quốc gia cả. Nếu thật sự có tiên nhân chịu giúp đỡ Đại Trinh, và Hoàng thượng đủ sáng suốt, chắc chắn lợi nhiều hơn hại. Nhưng về vấn đề này, nàng hỏi sai người rồi. Người mà nàng nên đặt câu hỏi chính là Kế tiên sinh. Hỏi xem, ngài ấy nghĩ như thế nào?”
Dương Bình đột nhiên sững sờ, thế rồi không còn nút gút mắc gì nữa.
Vì đã uống trà tại Cư An Tiểu Các, cảm giác mệt mỏi lúc đi đường cũng được quét sạch. Từ ngày hôm sau, đoàn người Doãn Thanh bắt đầu gửi thiệp mời đến các bậc cha chú và các thân nhân, trưởng bối phía nhà mẹ đẻ, còn dặn họ không cần lo lắng, vì đến lúc đó sẽ có xe ngựa và đội thuyền chờ sẵn để đưa họ đi dự lễ.
Vào ngày thứ tư, Doãn Thanh, người nhận được một tin nhắn đặc biệt, bèn đưa Thường Bình công chúa đến núi Ngưu Khuê. Ngoài mặt, đó là một chuyến tham quan lên vùng rừng núi, nhưng thực chất là để gặp người bạn tốt Hồ Vân của y. Lần này, theo lời nhắc của Doãn Thanh, Hồ Vân bèn hiển lộ chân thân trước mặt Dương Bình, để nàng biết rõ “con mèo đỏ” khi trước chính là con hồ ly này.
Thấy con “Hồ tiên” này, Dương Bình còn phấn khích hơn khi ở tại Cư An Tiểu Các. Về phần Hồ Vân và Doãn Thanh, cả hai cũng rất thoải mái. Hồ Vân còn làm phép để đánh lạc hướng các hộ vệ kia, sau đó bày ra yêu pháp của bản thân trước mặt Dương Bình, thậm chí còn tự đắc khoe mấy lá phù lục người giấy của bản thân. Nó còn khoe sẽ luyện chế phù lục người giấy biến thành con người, rồi đặt tên là “Ảnh mị.”
Ngày hôm đó, những thị vệ có nhiệm vụ bảo vệ công chúa và phò mã cũng giật thót cả tim. Bởi vì, ngay trong một ngọn núi từng nổi tiếng với chuyện hổ dữ ăn thịt người, thế mà một nhóm các thị vệ có võ công cao cường lại để lạc mất công chúa và phò mã tương lai. Lỗi lầm này hết sức nghiêm trọng.
May mắn thay, sau một lúc lâu, Doãn Thanh và Dương Bình an toàn ra khỏi núi, thế mới khiến cho nhóm thị vệ và đoàn tùy tùng toát cả mồ hôi lạnh. Sau khi biết rõ hai người sẽ không giáng tội mình vì thất trách, thậm chí còn giúp họ giấu giếm chuyện này, cả nhóm mới dần bình tĩnh lại.
Tuy nhiên, cũng chính vì sự việc này mãi mà cho đến khi rời huyện Ninh An rồi trở về kinh thành, nhóm các thị vệ vẫn chưa từng rời mắt khỏi hai vị chủ tử.
Một năm sau, hôn lễ của Doãn Thanh và Dương Bình huyên náo khắp cả kinh thành. Ngày thành hôn, Doãn phủ và hoàng cung đều rất náo nhiệt.
Trong không khí hạnh phúc này, Kế Duyên cũng dẫn theo Hồ Vân đến Doãn gia và gửi lời chúc phúc. Nhưng hắn không ở lại lâu vào dịp này, chỉ nán lại ba ngày rồi trở về huyện Ninh An.
…
Thời gian qua nhanh, nhưng ở huyện Ninh An, Kế Duyên cũng không hề cảm thấy thời gian tựa như dòng nước chảy, nhất là đã lâu chưa được ngủ sâu như hắn.
Lần này, Kế Duyên đã ở lại huyện Ninh An gần ba năm ròng. Đây là khoảng thời gian dài nhất mà hắn cư ngụ tại đây kể từ khi đến thế giới này.
Mấy năm qua cũng không có chuyện lớn nào xảy ra. Thậm chí, cũng không có bao nhiêu người đến quấy rầy Kế Duyên. Đa phần là Ngụy gia đến tặng trà định kỳ mỗi năm, còn trà mang đến Cư An Tiểu Các chính là loại thượng hảo hạng tốt nhất được lựa riêng ra.
Trong nháy mắt, đã là đầu tháng hai năm Mậu Tuất; Tôn Nhã Nhã cũng đã cao lớn hơn một chút. Ngày hôm nay, con bé vẫn tập viết trong sân. Rõ ràng là trời rất lạnh, nhưng tiểu cô nương đây vẫn cảm thấy tay chân mình khá ấm áp trong mảnh sân vườn này. Không những thế, mạch suy nghĩ của con bé khi ngồi trong sân cũng trở nên sáng tỏ hơn.
Về phần Kế Duyên, hắn đang ngồi vuốt nhẹ một vài đồng Pháp tiền trong phòng. Đây là kết quả của quá trình luyện hóa cẩn thận lặp đi lặp lại của hắn. Ánh sáng lộ ra càng ít, đạo uẩn càng sâu dày; từng đồng tiền trông như lớn hơn các đồng tiền phổ thông một chút, nhưng trọng lượng lại khá là nặng nề.
“Cốc, cốc cốc…”
Nghe cổng sân bị ai đó gõ vang, Tôn Nhã Nhã vội vàng đặt bút lên giá bút, sau đó chạy ra mở cửa.
“Két…” Vừa mở cửa ra, Tôn Nhã Nhã trông thấy một cụ ông râu trắng bạc phơ đang đứng bên ngoài với vẻ mặt cực kỳ hiền lành.
“Ngươi là Tôn Nhã Nhã à?”
Tôn Nhã Nhã cau mày.
“Lão gia gia, ngài là ai vậy ạ? Con chưa từng gặp qua ngài, tại sao ngài lại biết con?”
“Ha ha ha, dù chưa gặp nhưng ta vẫn có thể biết…”
Thấy Kế Duyên vừa bước ra khỏi nhà, Cư Nguyên Tử bèn chắp tay lên từ xa xa.
“Kế tiên sinh, đã đến lúc lên đường!”