Lại chỉ vào khu vực sát cạnh, tiếp: “Khu phía này thì thế nào? Chỉ có khu lầu các này là khả dĩ có vẻ đẹp tương xứng thôi.”
Lưu Dụ nặng nề thở dài một hơi: “Thực không ngờ tìm một người ở Tạ gia lại trắc trở tốn công sức đến vậy. Tuy chỗ này vẫn có hơn mười khu nhà, nhưng dù thế nào thì so với việc phải tra tìm khắp toàn phủ vẫn tốt hơn nhiều. Làm phiền lão ca huynh canh chừng cho tiểu đệ, đệ phải tiến hành trò chơi truy tìm giai nhân đây!”
Yến Phi nói: “Ngươi có diệu pháp nào để tìm người? Ngàn vạn lần đừng có tìm nhầm khuê phòng của một vị tiểu thư nào khác đấy nhé.”
Lưu Dụ trong lòng đã có chủ định đáp: “Bằng vào cái mũi tuy không hơn được Phương tổng nhưng vẫn đủ thính của ta. May mà ta và nàng đã từng gần gũi.”
Yến Phi cười nói: “Chúng ta đi thôi!”
Hai người nhẹ nhàng trượt xuống từ nóc nhà, triển khai thân pháp, vụt biến đi về phía lâu phòng mục tiêu.
“Vào đi!”
Cao Ngạn mở cửa mà lòng nơm nớp lo sợ, bởi vì Doãn Thanh Nhã dùng phương thức loại này đón tiếp gã, căn bản khiến gã không có cách nào để dò đoán được.
Doãn Thanh Nhã nhẹ nhàng nói: “Còn không lăn vào đi?”
Cao Ngạn trấn tĩnh trở lại, vội vàng khép cửa, vênh váo tiến vào, bước thẳng tới trước mặt Doãn Thanh Nhã đang ngồi bên cửa sổ, vươn tay nắm lấy hai bên tay vịn của chiếc ghế tựa nàng đang ngồi, không kìm lòng nổi khuất phục: “Ta đến rồi đây!”
Doãn Thanh Nhã nhấc tay ôm hai bên má ngọc, mắt đẹp trợn lên gắt: “Ngươi muốn làm gì hả? Phải chăng muốn ăn đòn?”
Cao Ngạn ở vị trí cách nàng không đến nửa thước, cùng nàng bốn mắt nhìn nhau. Hít vào khí vị mê người của nàng, mọi thứ bi ai khổ não đều sớm bay biến hết, cảm thấy cái gì cũng đều đáng cả, vui mừng nở gan nở ruột đáp: “Ta cái gì cùng đều không muốn, chỉ muốn cùng Nhã nhi từ nay về sau sẽ vĩnh viễn không bao giờ chia lìa, mọi ngày đều khiến Nhã nhi khoái khoái lạc lạc.”
Doãn Thanh Nhã không vui rít khẽ: “Tiểu tử người thật đến chết tính nết vẫn không thay đổi. Nếu ngươi còn không mau cút xéo sang ngồi xuống một bên, bổn cô nương sẽ lập tức quẳng ngươi ra ngoài cửa.”
Cao Ngạn xoay người một cái, quay vòng lại mà dời đi, lại xoay mình thêm cái nữa, dùng tư thế mà gã cho là đẹp nhất để ngồi xuống một chiếc ghế cách nàng một cái bàn nhỏ, ha ha cười nói: “Cái này gọi là đại trượng phu biết co biết duỗi, lúc thời cơ chưa chín muồi, thì tạm thời thoái lui.”
Doãn Thanh Nhã yêu kiều cười nói: “Biết co biết duỗi cái gì, toàn là nói quàng nói xiên.”
Cao Ngạn hi hi cười khì đáp: “Duỗi ấy là lúc đứng, còn co là lúc ngồi. Vừa rồi ta duỗi, bây giờ ta co, còn không phải biết co biết duỗi thì là cái gì?”
Doãn Thanh Nhã tức thì nghẹn họng giận dữ nói: “Tiểu tử chết bầm! Ngoại trừ mồm mép trơn như bôi mỡ ra, thì ngươi còn có bản lĩnh gì nữa chứ?”
Cao Ngạn ngang ngạnh đáp: “Hùng biện trơn tru không vấp váp, đó là một loại tài năng lớn. Nhớ năm xưa thời Xuân Thu Chiến Quốc, những vị thuộc trường phái tung hoành* như Tô Tần, Trương Nghi, đều bằng ba tấc lưỡi trơn tru như bôi mỡ, mà đoạt được công danh phú quý, lưu danh sử sách. Cao Ngạn ta bắt chước vậy mà đoạt được trái tim của Nhã nhi. Bởi vì ta biết rõ, trong thiên hạ chỉ có mỗi mình ta mới có thể chọc ghẹo cho nàng vui vẻ, những kẻ khác đều không thể làm được.”
Doãn Thanh Nhã cáu bẳn nói: “Đầu và miệng đều là của ngươi, ngươi thích nghĩ thế nào, muốn nói thế nào, cũng chỉ là suy nghĩ một phía của riêng ngươi mà thôi. Ta thực là hết cách với ngươi rồi. Được rồi! Tạm nhân lúc ta còn có chút nhẫn nại, hãy kể cho ta hay Biên Hoang tập có gì đặc biệt khiến người ta vui thích?”
Cao Ngạn trong lòng mừng rỡ, thầm nghĩ như vậy chẳng lẽ còn không phải tiếp nhận những lời khinh bạc gã nói, mà sẽ không hở một tí là động võ. Cảm giác loại này giống như là bay bổng trên chín tầng mây, được khoái lạc tựa như thần tiên vậy, nói làu làu như thể đang đếm của quý trong nhà: “Biên Hoang tập có mười địa điểm có thể cho phép người ta ngày thì trốn trong nhà đêm mới ra vui chơi, ban ngày chúng ta có thể cùng ngủ, buổi tối mới ra ngoài hoạt động…”
Doãn Thanh Nhã giận dữ cắt lời gã: “Ai cùng ngủ với ngươi?”
Cao Ngạn cười thầm: “Cùng ngủ với ngủ cùng một chỗ là có sự khác biệt, để ta giải thích cho nàng nghe…”
Doãn Thanh Nhã bịt chặt lỗ tai, má ửng hồng nói: “Ta không muốn nghe.”
Sau một hồi lâu không nghe thấy tiếng của Cao Ngạn, quay đầu lại, thấy Cao Ngạn đang ngây người ngơ ngẩn nhìn nàng chăm chú, bèn hạ tay xuống, hậm hực nói: “Tiểu tử chết bầm! Có gì hay mà nhìn chứ?”
Cao Ngạn nuốt nước bọt trong miệng, khó khăn đáp: “Nhã nhi quả là đẹp mê người.”
Doãn Thanh Nhã làm biểu tình “Trời ạ!” rồi thở dài: “Ngươi làm ơn quy củ chút có được không?”
Cao Ngạn dè dặt hỏi: “Ta có thể hỏi Nhã nhi một vấn đề được không?”
Doãn Thanh Nhã đề phòng hỏi lại: “Vấn đề gì?”
Cao Ngạn đáp: “Lần trước lúc chúng ta chia tay ở Biên Hoang tập, nàng không phải đã hỏi qua câu “Nhã nhi có điểm gì hay” này rồi mà? Nàng còn nhớ chứ?”
Doãn Thanh Nhã hai bên má ửng hồng, khiến nàng càng thêm vẻ kiều diễm nhu thuận. Khi Cao Ngạn vẫn còn chưa hiểu rõ là chuyện gì, thì nàng đã sớm tóm lấy ngực gã lôi ra khỏi ghế, quẳng ra ngoài cửa.
Lưu Dụ rốt cuộc cũng tìm được Tạ Chung Tú, nhưng không phải là ngửi được khí vị của nàng, mà là nghe thấy thanh âm của nàng.
Chỗ thanh âm truyền lại là trên một tòa nhà lầu hai tầng. Trên lầu vẫn lập lòe ánh đèn yếu ớt, Tạ Chung Tú đang phân phó tì nữ đi ngủ, xem ra nàng đã chuẩn bị lên giường đi ngủ.
Phòng thủ tại khu vực này đặc biệt nghiêm mật. Ngoại trừ bọn hộ viện dắt chó dữ đi tuần ra, còn có hai chốt canh ngầm. Đối với thám tử mà nói, đau đầu nhất chính là chốt canh ngầm. Bởi vì đối phương tĩnh phục ở chỗ tối, khiến người khó có thể phát giác ra được. Địch trong tối ta ngoài sáng, rất dễ bị bại lộ hình tích. Nhưng đương nhiên vẫn khó có thể làm khó dễ hạng cao thủ hàng đầu như Yến Phi. Toàn nhờ chàng nhắc nhở, Lưu Dụ mới có thể thành công lẩn vào trong bụi hoa cạnh bên tiểu lâu.
Yến Phi nhẹ nhàng như quỷ mị lướt đến bên cạnh gã, thấp giọng nói: “Trên lầu chỉ có mỗi mình nàng thôi. Ngươi đột nhập vào từ cửa sổ phía Nam, thì có thể giấu được tai mắt cả trạm gác, quan trọng nhất là không để nàng hiểu lầm mà thất thanh kêu lên.”
Lại chui vào cây đại thụ ở đằng sau cách đó hai trượng, nói: “Ta sẽ ẩn mình trên cây, lúc rời khỏi thì phải nhìn theo chỉ thị của ta.”
Lưu Dụ gật đầu biểu thị đã hiểu. Tiếp đó Yến Phi hiện ra vẻ mặt chăm chú tập trung toàn bộ tinh thần, hiển thị đang lưu ý động tĩnh bốn phía chung quanh. Lưu Dụ cảm thấy tim mình đang đập như điên, thấp tha thấp thỏm, cũng không biết là vì cái gì, mà khẩn trương đến bải hoải. Gã đang thầm mắng bản thân vô dụng thì Yến Phi quát khẽ: “Đi!”
Lưu Dụ lướt vụt đi như một làn khói, vòng đến một mặt của tiểu lâu, đằng thân bay lên, bám phập vào của sổ phía Nam.
Ánh đèn vụt tắt.
Lưu Dụ trong lòng khen tuyệt, mở toang cửa sổ khép hở, vô thanh vô tức tiến vào. Mùi hương như lan như ly bay vào trong mũi gã, không cần phải nói cũng biết quần áo và đồ dùng trên giường đều được ướp qua hương liệu. Đây còn là lần đầu tiên gã tự ý đột nhập vào phòng ngủ của khuê nữ, cảm giác loại này thật khó hình dung đến cực điểm, giống như đang muốn mạo phạm vào cấm địa thần thánh bất khả xâm phạm.
Tầng trên của tiểu lâu được phân cách làm hai bên bởi một bức mành trúc, ở giữa chỗ gã đang đứng có bày một chiếc giường nhỏ, bốn góc chăng rủ xuống màn thêu nhiều màu. Một bóng hình đẹp đẽ xinh tươi, đang yêu kiều bước tới bức mành trúc từ phía bên kia.
Lưu Dụ trong lòng dấy lên cảm xúc mãnh liệt như nhiệt hỏa, quên hết mọi thứ mà đi về phía mành trúc, dùng một tay ôm lấy mỹ nhân đang vén mành đi vào, còn tay kia bịt mồm nàng, ghé sát vào tai nàng khẽ nói: “Là ta! Là Lưu Dụ! Tôn tiểu thư không cần phải sợ hãi.”
Trong bóng tối, Tạ Chung Tú nghe vậy vẫn kịch liệt giãy giụa hai cái, mới bắt đầu an tĩnh trở lại, thân thể mềm mại nhè nhẹ rung rung.
Lưu Dụ có chút khó hiểu mà lại lần nữa thấp giọng nói: “Ta là Lưu Dụ!” rồi chầm chậm rời tay khỏi bờ môi anh đào mọng đỏ của nàng.
Tạ Chung Tú hổn hển hỏi: “Ngươi tới làm gì? Còn không buông ta ra!”
Nhiệt tình đang dâng tràn của Lưu Dụ tức thì tựa như bị nước băng dội thẳng vào đầu, nguội lạnh đi quá nửa, vô ý thức buông thỏng tay xuống.
Tạ Chung Tú thoát thân ra khỏi, thối lui lại phía sau về phía bức mành trúc, cho đến khi chạm lưng vào tường, mồm mở to như muốn hô hoán kêu lên thật lớn, nhưng đến cuối lại không phát ra âm thanh nào cả.
Lưu Dụ cảm thấy cả người tựa nhu hoàn toàn tê dại, càng hoàn toàn không rõ, cũng chưa từng nghĩ tới phản ứng như vậy của Tạ Chung Tú. Trong thoáng chốc trong đầu óc gã chợt trở thành một màn trắng trống rỗng. Sau đó gã phát giác bản thân đã đi đến sát trước mặt Tạ Chung Tú đang dựa lưng vào tường mà đứng, gượng gạo nói: “Tôn tiểu thư, ta là … ôi…”
Tạ Chung Tú có lẽ vì thấy gã không có thêm một hành động nào nữa, mới bình tĩnh trở lại, không vui hỏi: “Ngươi tại sao lại có thể đường đột tới đây giữa nửa đêm canh ba như vậy?”
Lưu Dụ không cách nào liên hệ lại được một Tạ Chung Tú đã lao vào lòng gã ngày ấy với Tạ Chung Tú trước mắt gã, miễn cưỡng thở hắt mấy lời: “Tôn tiểu thư không phải muốn gặp ta ư? Chỉ có như thế này chúng ta mới có cơ hội để nói chuyện riêng tư.”
Tạ Chung Tú giận dữ nói: “Ngươi có thể thông qua Tống thúc sắp xếp mà! Ở đâu có cái kiểu vô lễ này, xông loạn khuê phòng của ta, truyền ra ngoài thì còn ra thể thống gì nữa chứ?”
Lưu Dụ thiếu chút nữa muốn tìm một lỗ để mà chui xuống, cười khổ: “Sai thì cũng đã sai rồi, Tôn tiểu thư có lời gì muốn nói với ta vậy?”
Tạ Chung Tú giận cành hông mà nói: “Ta chỉ muốn chất vấn ngươi, vì sao muốn nương nhờ hạng bỉ ổi vô liêm sỉ Tư Mã Đạo Tử ấy? Ngươi đã quên cha ta dìu dắt ngươi như thế nào rồi ư? Ngươi còn mặt mũi nào để nhìn cha ta và Tạ gia chúng ta đây? Ngươi còn mặt mũi nào để nhìn Đạm Chân đây? Có làm gì không tốt thì làm, nào ngờ lại muốn làm chó săn cho Tư Mã Đạo Tử, uy danh của cha ta đã mất hết vào tay ngươi cả rồi.”
Lưu Dụ giật mình hiểu ra, toàn bộ sự việc căn bản là một sự hiểu lầm. Ánh mắt nàng nhìn gã hoàng hôn hôm đó, quả là tràn đầy oán giận và hậm hực bất lực không biết làm sao, vấn đề không phải là nàng yêu thương gã, mà là oán gã phản bội Tạ Huyền, cam tâm làm chó săn cho Tư Mã Đạo Tử. Sự thật là nàng chưa bao giờ xem trọng gã, tất cả cũng đều chỉ là những mơ mộng hão huyền của riêng mình gã mà thôi.
Lưu Dụ phát sinh cảm giác xấu hổ không biết chôn mặt vào đâu, hận không thể lập tức tự tận, một phát có thể kết thúc hết hàng trăm ý nghĩ trong đầu.
Giọng nói của Tạ Chung Tú tiếp tục văng vẳng truyền vào tai gã: “Ta bây giờ mới hiểu được Diễm thúc vì sao không cho phép ngươi bước vào nhà chúng ta nửa bước. Ông đã đúng, Đạm Chân quả thực đã nhìn lầm ngươi.”
Lòng Lưu Dụ quặn đau, toàn thân không chút thoải mái tựa như bị ngàn mũi kim đâm vào, cũng có cảm giác khó hô hấp, miễn cưỡng phấn chấn tinh thần nói: “Thỉnh tôn tiểu thư thứ cho Lưu Dụ tội đã tới làm phiền. Từ nay về sau ta sẽ không bao giờ quấy nhiễu tôn tiểu thư nữa.”
Dứt lời cũng không để ý xem liệu có làm kinh động tới người trong Tạ phủ hay không, nhanh chóng theo đường cũ mà rời đi.
* Tung hoành. Thời Chiến Quốc, “Tung hoành gia” là một học phái trong Cửu lưu gồm những hạng sĩ xuất thân, có tài biện luận đi du thuyết các nước để chiến hay hòa. Người được tôn sùng trong phái này là Tô Tần và Trương Nghi. Tô Tần và Trương Nghi đều là học trò của Quỉ Cốc tiên sinh.
Tô Tần người ở Lạc Dương đi du thuyết 6 nước: Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở hợp nhau lại chống đánh nước Tần là nước mạnh nhất. Chiều dọc là “Tung”. đất 6 nước đều ở theo một chiều từ bắc đến nam tại phía đông; đối với Tần ở phía tây, có một mình nên dùng danh từ “Hợp tung” để chỉ sự liên minh các nước. Tô Tần được vua Triệu phong làm Tung ước chưởng và cầm ấn là Tướng quốc 6 nước.
Trương Nghi người nước Ngụy, chủ trương trái lại thuyết của Tô Tần. Sau khi Tô Tần chết, tung ước sáu nước tan rã, Trương Nghi làm tướng nước Tần đi du thuyết sáu nước thờ Tần. “Hoành” là chiều ngang từ tây sang đông. Đất Tần ở về phía tây. Sáu nước ở về phía đông, không phải liên kết để chống Tần mà để hàng Tần, nên gọi là “Liên hoành”.