“Vậy tổng thu của một đất nước dùng để chi phí gần như hết cho quân đội sao?”
Vương Giai cười nói: “Đỗ tướng quân, có một sự hiểu làm trong chuyện này. Có một phần tiền rất lớn chi cho quân phí không phải từ ngân khố quốc gia”.
“Ồ. Chẳng lẽ quân đội còn có cách kiếm tiền sao?”
“Đúng. Nếu không thì lấy đâu ra tiền nuôi quân”.
Đỗ Văn Hạo trợn tròn mắt. Hắn mới tiếp xúc với quân đội hơn một tháng mặc dù hắn đã là thống soái tối cao của quân đội nhưng đối với quân đội có thể nói là khổng lồ nhất thế giới này thì vẫn chưa hoàn toàn hiểu hết. Hắn thầm nghĩ quân đội còn làm ăn buôn bán thì là quân đội kiểu gì đây nên hắn vội hỏi:”Quân đội cũng tổ chức làm ăn sao?”
“Ha ha. Đương nhiên cái gì có thể kiếm tiền thì làm. Ví dụ như hồi dịch ( Đầu cơ tích trữ ), mở tửu quán, cho vay lấy lãi”.
“Lợi nhuận thế nào?”
“Đương nhiên là lợi nhuận thu vào rất khá”.
“Cụ thể là bao nhiêu?” Đỗ Văn Hạo âm trầm hỏi.
Vương Giai nói: “Tất cả những điều này bên quân đội đều bí mật nên bản tướng cũng không hiểu rõ”.
“Vậy tiền lợi nhuận này không nộp vào quốc khố sao?”
“Không nộp. Khoản tiền này để cho bên quân đội chi dùng chung. Thế nhưng những lúc quốc khố trống rỗng có thể sang bên quân đội giàu có vay tiền bổ sung vào quốc khố”.
“Triều đình phải vay tiền bên quân đội sao?” Đỗ Văn Hạo cực kỳ kinh hãi, hắn trầm giọng nói: “Rốt cuộc một năm quân đội làm ăn buôn bán ra bao nhiêu tiền? Hãy cho một con số phỏng chừng đi”.
“Điều này” Vương Giai vuốt chòm râu trắng như tuyết. Hình như ông ta hiểu rõ dụng ý của con rể tương lai khi vẫn cố tình hỏi vấn đề này. Vương Giai quay sang nói với Thượng thư bộ binh Đặng Nhuận Phủ: “Đặng đại nhân, bộ binh của đại nhân quản lý Sương quân. Sương quân có không ít sự tình có liên quan tới bộ Binh. Bộ Binh cũng phụ trách tiền trả lương cho Sương quân. Đại nhân hẳn nắm được nhiều thông tin về chuyện này. Đại nhân biết gì thì cứ nói. Đỗ tướng quân đang có dự định chỉnh đốn quân đội, muốn hiểu rõ số lượng là bao nhiêu. Đại nhân hãy cứ bẩm báo con số thực. Tương lai Đỗ tướng quân sẽ đi xác minh”.
“Dạ” Đặng Nhuận Phủ suy nghĩ một lát rồi nói: “Tiền lợi nhuận của Sương quân ở các địa phương chênh lệch với nhau rất lớn. Ví dụ như vùng Giang Tích giàu có ở tây bắc thu lợi gấp mấy chục lần Sương quân ở vùng tây nam (chỉ vùng Tây Nam, Trung Quốc, bao gồm Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Tây Tạng.)Mấy ngày trước, Đô thống chế Sương quân lưỡng tích lộ Tô Châu là Vương Bảo, Vương đại nhân có tới bộ Binh làm việc, trong lúc tào lao có từng tiết lộ rằng lợi nhuận thu được của Sương quân bọn họ trong năm ngoái là tám vạn sáu ngàn quan”.
Tám vạn sáu ngàn quan tương đương với sáu trăm vạn nhân dân tệ.
Các đại thần Tể chấp trong đường sớm đã biết chuỵên quân đội làm ăn kiếm tiền nên không thấy ngạc nhiên nhưng khi nghe nói chỉ một lộ quân mà một năm thu lợi nhuận coa tới tám vạn sáu ngàn quán thì cũng không khỏi giật mình.
Đỗ Văn Hạo hỏi: “Một quân có bao nhiêu người?”
“Biên chế ấn định là hai ngàn năm trăm người nhưng trên thực tế không nhiều như vậy. Đại khái chỉ có chừng một ngàn năm trăm người”.
“Thiếu gần một nửa so với biên chế?’ Đỗ Văn Hạo trừng mắt hỏi.
Đặng Nhuận Phủ gật đầu nói: “Biên chế của bọn họ cũng đã coi là tương đối nhiều. Có nơi Sương quân thiếu biên chế tới bảy phần”.
Bây giờ Đỗ Văn Hạo không muốn tập trung vào tìm hiểu vì sao Sương quân lại thiếu nhiều biên chế như vậy. Hắn muốn tập trung vào chủ đề quân phí của quân đội: “Tới tám vạn sáu ngàn quan lợi nhuận. Bọn họ giữ lại hết dùng cho mình. Bao nhiêu tiền dùng cho quân phí, số tiền còn lại chạy đi đâu?’
“Điều này. Khụ khụ” Đặng Nhuận Phủ ho khan hai tiếng, không nói tiếp.
Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua các đại thần trong đại đường nói: “Một đội quân một ngàn năm trăm người, buôn bán hàng năm kiếm lợi nhuận tới tám vạn sáu ngàn quan. Chi ra bình quân mỗi người được năm mươi quan ( tương đương với năm vạn nhân dân tệ ). Đây là thu nhập bên ngoài quân phí. Hơn nữa ngoại trừ quân phí, mỗi năm thu được bảy tám mươi quan tiền. Thật sự rất giàu có”.
Đặng Nhuận Phủ cười gượng nói: “Đỗ tướng quân. Đây chỉ là thu nhập của Sương quân ở những vùng giàu có. Những nơi như này chiếm không tới một phần mười Sương quân. Tuyệt đại bộ phận Sương quân ở những nơi xa xôi lợi nhuận thu vào ít hơn số này rất nhiều. Ví dụ như Sương quân tây bắc mỗi năm chỉ thu lợi nhuận có mấy trăm quan tiền mà thôi”.
Đỗ Văn Hạo hỏi” Việc làm ăn buôn bán của Sương quân rất phổ biến sao?”
“Gần như cũng chỉ là làm ăn nhỏ mà thôi”.
“Cấm quân thì sao?”
“Cấm quân thì càng nhiều hơn nữa. Cấm quân có nhân tài vật lực phong phú. Tiền vốn cao hơn Sương quân. Lợi nhuận đương nhiên nhiều hơn so với Sương quân”.
Đỗ Văn Hạo nhìn Vương Giai nói: “Quân đội lại đi làm ăn buôn bán, vậy còn việc huấn luyện thì thế nào? Sao có thể phòng thủ biên cương? Tại sao triều đình lại cho phép bọn họ làm như vậy?”
Vương Giai cười gượng nói: “Làm gì có chuyện cho phép như vậy. Từ Thái Tổ hoàng đế đến nay đều ra chỉ lệnh cấm quân đội không được tiến hành đầu cơ tích trữ, sai binh lính làm kinh doanh buôn bán kiếm lời, chủ tướng sẽ bị bắt trị tội”.
Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy tại sao quân đội vẫn còn làm ăn buôn bán như vậy?”
“Điều này cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Tướng quân cũng vừa mới nghe rồi đó. Dùng ngân khố cả nước mới đủ miễn cưỡng chi dùng cho quân đội. Nếu tất cả ngân khố đều chi dùng cho quân đội, vậy triều đình lấy tiền đâu ra?
Đỗ Văn Hạo đứng dậy nói: “Đây chính là lý do tại hạ phản đối việc mở rộng Sương quân. Sương quân là gì? Quân tạo dịch! Nói một cách dễ nghe chính là dân phu mặc quân trang. Những dân phu này hàng năm triều đình phải trả quân phí tới ba phần ngân khố để nuôi dưỡng bọn họ. Nếu như trong thời chiến thì còn chấp nhận được nhưng bây giờ ngoại trừ biên giới, tất cả hai mươi vạn Sương quân các lộ không thực hiện bất kỳ nhiệm vụ quân sự nào. Bọn họ đang làm gì vậy? Thứ nhất là bị quan phu sai làm tạp dịch, bị tướng lĩnh Sương quân coi như là công cụ kiếm tiền. Chắc chắn là mất nhiều tiền nuôi dưỡng mà không có tác dụng gì lớn. Hãy thử hỏi một lần xem? Tại sao triều đình phải bỏ ra số lượng tiền lớn như vậy để nuôi dưỡng hơn mười vạn dân phu? Thật sự có cần thiết như vậy không?”