“Không phải. Hoàng Thượng không nhận ra trên giấy có viết quá trình tính toán sao?”
Tống Triết Tông chăm chú nhìn thì thấy trên mặt giấy có những ký hiệu kỳ quái siêu siêu vẹo vẹo, căn bản hắn không hiểu đó là gì nên hỏi: “Khanh làm gì vậy?”
“Con số Ả rập và phép tính nhân. Ha ha”.
“Cái gì?”
“Đây chính là một loại ký hiệu chuyên môn dùng để tính toán, đơn giản hơn rất nhiều so với tính trù của Hoàng Thượng nhiều”.
Tống Triết Tông nào tin tưởng vào điều đó. Hắn quay đầu nhìn chằm chằm vào Phó Nghiêu Du, hung tợn nói: “Khanh giúp hắn dối trá phải không? Trước đó khanh đã nói đề bài cho hắn biết phải không?”
Phó Nghiêu Du vội vàng quỳ dạp xuống dập đầu nói: “Không có, Hoàng Thượng. Vi thần tuyệt đối không dám phạm tội khi quân. Quả thực đề bài này là vi thần mới nghĩ ra, không nói cho Đỗ tướng quân biết trước”.
“Trẫm không tin!”.
Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: “Nếu như Hoàng Thượng không tin. Thế này đi, Hoàng Thượng hãy tự mình ra một đề bài, hai chúng ta cùng tính lại”.
“Được” Tống Triết Tông suy nghĩ một lát rồi nói ra đề bài là một phép nhân sáu chữ số sau đó hắn nhanh chóng tính toán như thoi đưa.
Lúc này Đỗ Văn Hạo chủ định là mất nhuệ khí của Tống Triết Tông. Hắn cầm bút tính toán rất nhanh, sau khi kiểm tra lại một lần hắn viết đáp án ra, đặt bút vào giá bút, vỗ tay nói: “Vi thần đã tính xong rồi”.
Tống Triết Tông líu lưỡi nói: “Không thể nào!”.
“Hoàng Thượng” Đỗ Văn Hạo chậm rãi nhấp một ngụm trà rồi nói tiếp: “Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra”.
“Nhất định đáp án của khanh sai. Đợi ta tính toán đã” Tống Triết Tông không để ý tới Đỗ Văn Hạo, nghiêm mặt tiếp tục dùng tính trù tính toán. Lúc này Triệu Nhưng và Triệu Cát đã dừng lại, vây quanh xem náo nhiệt.
Tống Triết Tông càng sốt ruột lại càng chậm. Sau khi hết thời gian khoảng chừng một nén nhanh hắn mới tính toán xong. Sau khi cầm đáp án của Đỗ Văn Hạo thấy giống hệt với đáp án của mình, lập tức Tống Triết Tông trợn mắt há hốc mồm.
Lần này chính là đề bài do chính Tống Triết Tông nghĩ ra, tính toán ngay tại chỗ, tuyệt đối không có khả năng dối trá. Lúc này Tống Triết Tông mới tin tưởng phương pháp tính toán thần kỳ của Đỗ Văn Hạo. Hắn bỏ tờ giấy xuống gật đầu nói: “Ừ. Thuật tính toán của khanh rất lợi hại. Thế nhưng Trẫm muốn biết, thuật tính toán này rốt cuộc có lợi ích gì?””Có thể giải quyết rất nhiều vấn đề thực tế” Đỗ Văn Hạo nói: “Ví dụ như kho lương của một nha môn nào đó là hình trụ, có tổng cộng bảy mươi hai kho lương giống nhau như thế, kích thước như nhau. Đường kính bên trong hai trượng, cao một trượng năm thước, hỏi bảy mươi hai kho lương này có thể chứa được bao nhiêu thạch lúa gạo?”
Căn bản Tống Triết Tông không học qua hình học nên đương nhiên hắn không biết tính toán thể tích hình trụ như thế nào. Hắn ngơ ngác lắc đầu nói: “Tiên sinh còn có cái gì có thể dạy Trẫm?”
Đỗ Văn Hạo cầm chén nước trắng đặt lên bàn. Hắn lấy một cái bút lông nhúng vào trong chén nước rồi đặt trước bốn tiểu hài tử và hỏi: “Có ai nói cho ta biết vì sao phần bút nhúng trong nước lại uốn lượn vậy không?”
Hiện tượng này rất bình thường, mấy tiểu hài tử này cũng đã sớm biết nhưng nếu giải thích lý do vì sao nó lại uốn lượn thì lại không thể nên ai cũng nhìn hắn lắc đầu.
Đỗ Văn Hạo nói: “Đây là hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Sau này khi ta dạy cho mọi người kiến thức về ánh sáng mọi người sẽ hiểu ngay thôi”.
Đỗ Văn Hạo lại cầm lên một chiếc chén không và nói: “Nếu như Hoàng Thượng chuẩn bị chế tạo một chiếc chén vàng. Thử hỏi Hoàng Thượng sẽ cần bao nhiêu vàng?”
Hiển nhiên bốn người Tống Triết Tông lại lắc đầu.
Đỗ Văn Hạo lại hỏi tiếp: “Có ai biết tại sao có động đất không? Tại sạo trời lại mưa? Tại sao trời lại sinh ra sấm chớp? Tại sao mặt trời luôn mọc ở phía đông, lặn ở phía tây? Tại sao lại có hiện tượng chó ăn trăng ( nhật thực )? Tại sao lại có lúc trăng tròn, trăng khuyết? Tại sao lại có chớp mắt? Rốt cuộc chúng ta là ai? Chúng ta từ đâu tới? Đi tới đâu? Vị trí của ngũ tạng lục phủ của con người là gì, có tác dụng gì? Trên thế giới này ngoại trừ Đại Tống, Đại Liêu và Tây Hạ thì còn những quốc gia nào nữa? Bọn họ ở chỗ nào? Làm thế nào mới có thể tới chỗ bọn họ?”
Mấy người Tống Triết Tông lại càng ngơ ngác lắc đầu.
Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Tất cả những điều này khi nào mọi người học xong bài giảng của ta thì cũng sẽ biết”.
Tiểu công chúa Niệm Niệm vỗ tay nói: “Hay! Bây giờ nta đã muốn nghe tiên sinh giảng bài”.
Triệu Nhưng cũng há miệng béo mập cười toe toét nói: “Đúng vậy, nghe rất thích. Ta cũng muốn nghe”.
Tống Triết Tông nhìn thấy vẻ mặt hưng phấn chảy nước miếng của hai người đó, kỳ thật trong lòng hắn cũng rất ngứa ngáy, hắn mỉm cười nói: “Quả thực bài giản của Đỗ tiên sinh rất hấp dẫn. Quả thật Trẫm không ngờ Đỗ tiên sinh là người thông minh uyên bác nghe rộng biết nhiều. Thảo nào Hoàng tổ mẫu muốn tiên sinh phụ trách việc học của Trẫm”.
Đỗ Văn Hạo mỉm cười, hắn thoáng nhìn thấy Triệu Cát vẫn ngồi yên, không có vẻ hưng phấn như ba huynh muội của mình thì kinh ngạc hỏi: “Thập nhất hoàng tử, có chuyện gì vậy?”
“Tiên sinh có thể dạy ta vẽ tranh không?” Triệu Cát hỏi.
Lúc này Đỗ Văn Hạo mới nhớ tới vị Hoàng đế tình tình phong lưu này còn là một đại danh hoạ có bút pháp thần kỳ trong lịch sử. Đó chính là niềm đam mê nhất của Triệu Cát. Đối với hội hoạ Đỗ Văn Hạo lại không có gì đặc biệt. Làm sao bây giờ?
Ánh mắt hắn đảo qua, lập tức xuất hiện chủ ý. Không phải chính mình đã học qua cách phác hoạ vật thực sao. Mặc dù kỹ thuật của hắn còn không có gì cao siêu nhưng ít ra hắn có thể dạy một số kiến thức về quan sát cùng kiến thức về ánh sáng, màu sắc. Bởi vì thuật vẽ tranh truyền thống của Trung Quốc không nói tới thuật quan sát, lại càng không chú trọng tới hiệu quả của ánh sáng màu sắc. Bây giờ bản thân hắn có thể dạy Triệu Cát vấn đề này. Thế nhưng nhất định phải chú trọng một vấn đề là không thể dùng tri thức về màu sắc và ánh sáng vào vẽ tranh chân dung nếu không thì sẽ gây ra hoạ.
Về chuyện này, trong lịch sử đã từng xảy ra một chuyện nhỏ. Số là vào triều Thanh, có một hoạ sĩ hội hoạ phương tây dương dương tự đắc muốn thể hiện một chút trước mặt lão Phật gia. Người đó dùng hiệu quả ánh sáng màu sắc trong vẽ tranh phương tây áp dụng vào bức tranh vẽ lão Phật gia, quả thực có cảm giác rất nổi nhưng khi bức tranh được dâng lên lão Phật gia, lão Phật gia đột nhiên giận dữ, suýt chút nữa cho chém đầu người đó bởi vì trong con mắt lão Phật gia, hiệu quả lập thể này toạ nên trên mặt như có bóng tối. Trong khi đó người Trung Quốc rất kiêng kỵ “Âm Dương mặt” là một điềm gở. Nhà hoạ sĩ vẻ tranh phương tây đó sợ tới mức vội vàng sửa đổi, đổi khuôn mặt của lão Phật gia thành ánh sáng chói lọi, khi đó lão Phật gia mới đổi giận làm vui tha mạng cho người đó.
Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói với Triệu Cát: “Ta không biết dùng bút lông vẽ tranh sơn thuỷ, hoa chim người. nhưng ta có thể dạy cách hoàng tử cách dùng than chì vẽ tranh, cũng có thể dạy hoàng tử cách thưởng thức hội hoạ đúng đắn, có thể làm cho bức tranh của người vẽ ra giống như thật”.
“Thật vậy sao?” Triệu Cát hỏi.
Ba người kia cũng bắt đầu kêu gào bắt Đỗ Văn Hạo bắt đầu dạy những kiến thức mà hắn vừa nói.
Đỗ Văn Hạo nói: “Bây giờ không còn kịp rồi. Ta phải lập tức tới nha môn Tể tướng họp. Buổi chiều nhị vị đại nhân sẽ khảo sát sở học trước kia của Hoàng Thượng và ba người. Ngày mai ta sẽ tới dạy mấy người”.
Đỗ Văn Hạo dặn dò hai người Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du mấy câu rồi mới rời khỏi Tư Thiện đường đi tới Chính Sự đường ở nha môn Tể tướng.