“Chuyện trong thiên hạ hãy để thiên hạ tự giải quyết, bọn ta không can dự.”
“Nếu như quân Mông Cổ tới tràn tới nhà các người, phanh thây hài nhi các người, hãm hiếp thê thiếp các người, lúc đó kiếm pháp các người không những phải dùng đến, mà còn bị ép truyền thụ lại cho chúng nó. Các người muốn vậy sao?”
Gia Khảm thấy lời lẽ hùng hồn, muốn phản biện cũng không cam tâm, bèn đáp. “Để ta vào nói chuyện với phụ thân ta.”
Gia Khảm vào trong một hồi. Khi trở ra, Khảm chỉ gật đầu một cái, khoát tay ra hiệu cho Thừa Lân vào trong. Thừa Lân cả mừng, chắp tay cảm tạ một hồi rồi mới bước vào.
Hạc Kiếm pháp ung dung, uyển chuyển, kiếm khí như sương tuyết, đối với nội tại của Thừa Lân là vô cùng phù hợp. Kiếm pháp mà Gia Khảm học trong hàng chục năm, Thừa Lân chỉ mất năm năm để thấm nhuần. Chỉ có điều là cơ thể vẫn chưa cao lớn hơn là bao, và quan trọng hơn cả là nội công vẫn chưa thể khai mở. Đã nhiều lần Thừa Lân sốt ruột hỏi sư phụ làm thế nào để khai mở nội công, sức một địch mười như cha là Thừa Ngạn, nhưng Gia Khảm chỉ đơn giản đáp, “Cứ để thuận theo tự nhiên. Nếu con gượng ép vận nội công thì e rằng khi có phản ứng tiêu cực, thân thể của con sẽ không chịu được.”
Thế nên chàng mới kiên nhẫn chờ đợi, chỉ nhập tâm vào cải thiện kiếm thuật. Tuy nhiên, khi kiếm đạo chưa đạt tới cực hạn thì hung tin Yên Kinh thất thủ tới tai. Thừa Lân vội từ biệt sư phụ mà trở về miền Nam.
Trước khi đi, Gia Tịnh gửi gắm cho Thừa Lân một cuốn sách mỏng, trong đó ghi Hàn Cầm Kiếm Phổ. Gia Tịnh khuyên nhủ, “Trong đây chính là tất cả tinh hoa chiêu thức của Hạc Kiếm pháp, ta chưa bao giờ truyền thụ lại cho ai, kể cả Gia Khảm. Nay ta không còn có thể truyền dạy cho con, nên con hãy đọc lấy, nếu tự ngộ ra được thì con chính là có tư chất, còn không được thì kiếm thuật cũng sẽ chỉ tới đó mà thôi.”
Nói đặng, lại truyền lại cho Thừa Lân thanh Không Ngưng Kiếm. Đốc kiếm dài gần ba thước, lưỡi kiếm mảnh mà sắc lẹm, phản quang sắc trời xanh dương biêng biếc. Thừa Lân cầm kiếm lên, thanh kiếm tưởng nhẹ mà nặng không tưởng, chuôi kiếm lại khảm gỗ bạch dương sần sùi, kể cả cầm hai tay vẫn thấy khó chịu. Thừa Lân vốn nhỏ người, vừa cầm kiếm vừa cưỡi ngựa chắc chắn không thể sử dụng dễ dàng. Gia Tịnh nhìn nét mặt của đồ đệ, biết ý mà nói, “Kiếm thuật không chỉ nằm ở sức mạnh thể chất, mà còn ở nội lực khai tỏa tới đâu. Khi nào một tay con đốc ngựa, tay kia múa được kiếm, ấy mới là vận dụng được tâm lực.”
Thừa Lân hiểu ý sư phụ, nhưng vẫn chưa biết làm thế nào để lĩnh hội. Nhưng thời gian quá cấp bách, đành phải từ tạ mà rời đi, một mình một ngựa một mạch về Liêu Dương đoàn tụ với gia đình.
Trên đường đi, Thừa Lân cứ có phút nào nghỉ ngơi là lại mang sách ra đọc, vừa đọc vừa luyện kiếm pháp theo chỉ dẫn. Tuy nhiên, Không Ngưng Kiếm thì khó điều khiển, chiêu thức thì không cho phép dùng hai tay, Thừa Lân không thể thoải mái ra chiêu. Sử dụng đoản kiếm thông thường thì lại không cảm thấy chút sát thương nào. Thừa Lân trong lòng không vui, nhưng tự dặn mình không được nản lòng. “Từ giờ về tới Liêu Dương, vẫn còn cả một tuần đường. Tới đó thế nào cũng lĩnh hội được chút ít,” Thừa Lân nhẩm trong đầu.
Nhưng khi vừa mới vượt qua Điệu Binh Sơn, tới gần ải Thiết Lĩnh, Thừa Lân không còn thấy quốc kì nước Kim nữa. Chỉ thấy xác chết la liệt bên đường, mùi hôi tanh bốc lên nồng nặc. Thừa Lân cẩn trọng men sơn lộ đi thêm một dặm nữa thì thấy một trại lính ở xa, cắm cờ nheo hình tam giác, mép đỏ răng cưa bao bọc lấy màu xanh bên trong. Khi đó, Thừa Lân mới nhận ra một sự thật kinh hoàng.
Cả Liêu châu đều đã rơi vào tay Mông Cổ.