Bữa ăn với Đại Bứ Mỹ hóa ra cũng là một dịp thú vị Abel phải giải thích cho những người khách đến dự về việc tại sao ông đã phải ăn trong bếp sứ quán Anh.
Lúc ông nói sự thật, hết thảy mọi người đều nhìn ông bằng con mắt ngạc nhiên kính phục. ông không chắc có nhiều người trong số đó tin là ông suýt bị chặt cụt tay hay không, nhưng mọi người ai cũng khen cái vòng bạc và tối hôm đó ai cũng gọi ông bằng “ngài”.
Hôm sau Abel dậy sớm để sẵn sàng bay về Mỹ.
****
Chiếc máy bay DC-8 đỗ xuống Belgrade và phải nằm tịt ở đó mười sáu tiếng chờ sửa chữa lại. Họ bảo với ông là có chuyện trục trặc ở bộ phận hạ cánh. ông ngồi trong phòng đợi sân bay, nhấp thứ cà phê Nam tư không thể nào uống được. Sự tương phản giữa sứ quán Anh với cái quầy ăn tạm ở nước này khiến Abel nhớ mãi không quên được. Cuối cùng, máy bay cất cánh để rồi lại bị hoãn ở Amsterdam. Lần này, hành khách được yêu cầu đổi sang máy bay khác.
Về đến sân bay Icuewild, coi như Abel đã đi chuyến này hết gần ba mươi sáu tiếng. ông mệt quá đến không bước đi nổi nữa. Vừa ra khỏi khu vực Hải quan, ông bỗng thấy mình bị một lô nhà báo vây quanh, máy ảnh chụp tí tách loang loáng. ông toét miệng cười. Chắc là công bố rồi, ông nghĩ bụng. Bây giờ là chính thức đây. ông đứng thẳng người lên, chậm chạp bước một cách đàng hoàng, giấu cái dáng chân thọt. Không thấy George đâu, còn các nhà nhiếp ảnh thì cứ chen nhau để chụp ông.
Rồi ông thấy George đứng ở bên rìa đám đông, người như mất hồn. Qua hàng rào, Abel bỗng thấy tim mình như rụng xuống, còn một nhà báo thì không những không hỏi cảm tưởng ông như thế nào khi là người Mỹ gốc Ba Lan đầu tiên được bổ nhiệm làm đại sứ ở Warsaw, mà anh ta lại gào lên
– Ông có câu trả lời gì cho những lời buộc tội không?
Máy ảnh lại chớp lên nhoang nhoáng cùng với các câu hỏi khác.
– Những lời buộc tội có đúng không, ông Rosnovski?
– Thực tế ông đã trả cho nghị sĩ Osborne bao nhiêu tiền?
– Ông có phủ nhận những lời buộc tội ấy không?
– Ông trở về Mỹ để ra tòa đó chăng?
Họ ghi những câu trả lời của Abel mặc dầu ông không nói gì. Rồi bỗng ông quát to lên:
– Cho tôi ra khỏi chỗ này đi!
George cố chen lên đến chỗ Abel và len qua đám đông ra xe Cadillac đang chờ ở ngoài. Abel cúi xuống đưa hai tay lên che đầu trong khi đèn máy ảnh vẫn tiếp tục nháy. George quát người lái xe cho chạy ngay đi.
– về Nam tước, thưa ông? – Anh ta hỏi.
– Không, về chỗ cô Rosnovski ở đường 57. – George trả lời.
– Tại sao? – Abel hỏi.
– Vì báo chí đang kéo đầy đến Nam tước.
– Tôi không hiểu, – Abel nói. – ở Istanbul họ đối đãi với tôi như với một đại sứ, thế mà về đến nhà lại như một phạm nhân là thế nào? Có chuyện gì thế, George?
– Anh muốn nghe tôi nói tất cả hay chờ gặp luật sư của anh? – George hỏi.
– Luật sư của tôi? Anh thuê người đại diện cho tôi à? – Abel hỏi.
– H. Trafford Jilks, người khá nhất và đắt tiền nhất. Tôi nghĩ trong tình thế này anh không ngại gì về tiền cả, Abel.
– Đúng đấy, George, tôi xin lỗi. Bây giờ ông ta đâu?
– Tôi đề ông ta ở lại tòa, nhưng ông ta bảo xong việc là ông ta về đây ngay.
– Tôi không thể chờ lâu thế được, George. Anh cứ nói qua cho tôi biết là cái gì đã, nói cái xấu nhất ấy.
George hít lấy một hơi dài. Ông nói:
– Có giấy bắt giam anh.
– Về tội gì?
– Hối lộ quan chức chính phủ.
– Cả đời tôi chưa bao giờ dính đến một quan chức chính phủ nào, – Abel nói.
– Tôi biết, nhưng Henry Osbome có dính đến, và những gì ông ta làm hình như là nhân danh anh hoặc thay mặt anh.
– Ôi lạy Chúa,- Abel nói. – Lẽ ra tôi không bao giờ dùng ông ta. Tôi đã để cho cái điều cả hai cùng ghét Kane làm cho đầu óc mình bị ngu mất rồi. Nhưng tôi vẫn còn chưa thể tin được là Henry nói hết, vì cuối cùng chính ông ta cũng bị tội kia mà.
– Nhưng Henry đã biến mất rồi, – George nói. – Và điều ngạc nhiên lớn nhất là tự nhiên tất cả các khoản nợ của ông ta đã được bí mật thanh toán hết.
– William Kane rồi, – Abel bật ra.
– Không thấy gì chỉ về hướng đó, – George nói. – Không có chứng cớ gì ông ta dính líu đến chuyện này.
– Ai cần gì chứng cớ? Làm sao các nhà cầm quyền có được những tài liệu này?
– Không rõ lắm, – George. – Hình như có một gói hồ sơ nặc danh gửi thẳng đến Bộ Tư pháp ở Washington.
– Chắc là gửi từ bưu điện New York, – Abel nói.
-Không, từ Chicago.
Abel im lặng một lúc.
– Không thể là Henry gửi hồ sơ ấy cho họ, – ông nói – Như vậy vô lý.
– Sao anh biết chắc như vậy ? – George hỏi.
– Vì anh vừa bảo là các khoản nợ của ông ta được thanh toán, và chắc chắn là Bộ Tư Pháp nếu không tóm được món bở này thì họ sẽ không chịu ra tay. Henry có thể đã bán hồ sơ cho một người nào khác. Nhưng người đó là ai? Điều duy nhất chắc chắn là ông ta không bao giờ trực tiếp thả cái tin ấy cho Kane.
– Trực tiếp ư ? – George nói.
– Phải, trực tiếp, – Abel nhắc lại. – Có thể ông ta không bán trực tiếp. Có thể Kane đã thu xếp một người môi giới nào đó giải quyết toàn bộ vụ này nếu họ biết Henry đang mắc nợ rất nhiều và bọn cá cược đang đe dọa ông ta.
– Có thể đúng đấy, Abel. Chả cần phải một anh thám tử cũng có thể khám phá ra những vấn đề tài chính của Henry. Bất cứ ai ngồi ở một quầy rượu Chicago cũng có thể biết chuyện đó. Nhưng đừng vội kết luận gì. Để xem luật sư của anh nói thế nào đã.
Chiếc xe Cadillac dừng lại trước ngôi nhà cũ của Florentyna. Abel đã giữ lại ngôi nhà này với hy vọng một ngày kia con gái ông sẽ quay về George đã trông thấy Trafford Jilks đứng chờ sẵn ở cửa. Ông mở cho họ vào. Ngồi xong đâu đấy, George rót cho Abel một cốc whisky lớn. Abel uống một hơi cạn rồi đưa cốc cho George róc tiếp.
– Ông cứ nói cái tệ nhất ấy, ông Jilks. Ta giải quyết cho xong chuyện này đi.
– Tôi rất tiếc, ông Rosnovski, – ông ta lên tiếng. – Ông Novak có cho tôi biết về chuyện ở Warsaw.
– Bây giờ thì hết rồi. Ta nên quên cái gọi là “thưa Ngài” ấy đi thôi. Ông có thể tin chắc là nếu Vincent Hogan được hỏi đến, ông ta sẽ không còn nhớ cả tên tôi nữa kia. Nào, ông Jilks, họ ghép tôi vào những tội gì?
– Ông bị kết án mười bảy tội hối lộ và làm hư hỏng quan chức chính phủ ở mười bốn bang khác nhau. Tôi đã tạm thời thu xếp với Bộ tư pháp để người ta đến bắt ông tại nhà này vào sáng mai. Họ cũng không phản đối nếu ta nộp tiền để được tạm tha.
– Thế thì dễ chịu đấy, Abel nói, – nhưng nếu họ chứng minh được đầy đủ các tội thì sao?
– Ồ thế nào họ chả chứng minh được một số tội, – Tranfford Jilks nói. – Nhưng chừng nào Henry Osborne còn lủi trốn thì họ còn khó chưa thể đổ hết các tội cho ông được. Dù sao ông cũng phải thừa nhận sự thật là dù ông có tội hay không thì tai vạ cũng đã xảy ra rồi, ông Rosnovski.
– Tôi hiểu rõ quá đi chứ, – Abel nói, đưa mắt liếc nhìn trang đầu tờ Tin tức hàng ngày Tranfford Jilks mang theo. – Bây giờ thì ông phải tìm ra xem kẻ nào đã mua hồ sơ ấy của Henry Osborne, ông Jilks. Ông cần bao nhiêu người để làm việc này cứ thuê hết. Tôi không ngại tốn kém. Nhưng ông phải tìm ra, và tìm ra cho nhanh, vì nếu cuối cùng đó đúng là William Kane thì tôi sẽ cho hắn đứt luôn.
– Ông đã đang gay go rồi đấy, đừng có làm cho rắc rối thêm, – Tranfford Jilks nói. – Khéo rồi lại không rút ra được.
– Ông yên trí, – Abel nói. – Khi nào tôi cho Kane đi đứt thì đó sẽ là hợp pháp và hoàn toàn có danh dự.
– Ông nghe kỹ tôi nói nhé, ông Rosnovski. Lúc này ông hãy quên William Kane đi, và hãy lo về vụ xử sắp tới. Đó sẽ là sự kiện quan trọng nhất trong đời ông trừ phi ông không cần gì đến chuyện ngồi tù trong mười năm tới. Tối nay thì ông không còn có thể làm gì được nữa. Tôi sẽ cho ngươi của tôi đi tìm Henry Osborne, và sẽ đưa ra một lời tuyên bố ngắn cho báo chí bác bỏ những tội đó, nói rằng sau đây sẽ có lời giải thích đầy đủ chứng minh rằng ông hoàn toàn vô tội.
– Ta làm thế được không ? – George hỏi với vẻ hy vọng.
– Không đâu, – Jilks nói, – nhưng nó cho tôi có thêm thời gian để suy nghĩ. Khi nào ông Rosnoyski có dịp xem lại toàn bộ hồ sơ tên tuổi ấy, ông sẽ thấy là tôi rất ngạc nhiên phát hiện ra ông không hề có quan hệ trực tiếp gì với bất cứ ai trong đó. Rất có thể là Henry Osbome trước sau vẫn chỉ làm trung gian mà không bao giờ đưa ông Rosnovski vào đây cả. Như thế thì việc của tôi là phải chứng minh rằng Osborne đã vượt quyền của mình với tư cách là một giám đốc của công ty Xin ông nhớ cho nhé, ông Rosnovski, nếu ông gặp bất cứ người nào có tên trong hồ sơ đó thì ông phải cho tôi biết ngay vì, lạy Chúa, tôi chắc chắn mười mươi là Bộ Tư pháp sẽ dùng những người đó làm nhân chứng để chống lại chúng ta. Tôi sẽ để một bản sao hồ sơ lại cho ông rồi đến mai bắt đầu lo chuyện này. Ông cứ đi nằm và cố ngủ lấy một giấc. Chắc ông vừa đi về mệt lắm rồi. Sáng mai tôi gặp lại ông.
Abel bị bắt một cách lặng lẽ tại nhà con gái ông vào 8 giờ rưỡi sáng. Cảnh sát và viên chức tòa án liên bang của phần Nam New York đưa xe đến đem ông đi. Màu sắc rực rỡ trang trí trên các cửa hàng nhân ngay lễ thánh Valentine khiến Abel càng cảm thấy cô đơn. Jilks tưởng mình đã thu xếp được kín đáo không cho báo chí biết đến, nhưng khi Abel vừa tới tòa án thì ông lập tức đã bị phóng viên và nhiếp ảnh vây quanh. Ông cố gắng chịu đựng để đi vào phòng xử, George đi trước và Jilks theo sau. Họ yên lặng ngồi trong phòng chờ đến lượt mình.
Lúc được gọi ra, quá trình tuyên án chỉ có vài phút và không khí buồn tẻ một cách kỳ lạ. Thư ký tòa đọc lời tuyên án, Tranfford Jilks trả lời “không có tội” thay mặt cho khách hàng của mình và yêu cầu được nộp tiền để tạm tha. Như đã được thỏa thuận trước, tòa không bác ý kiến đó. Jilks đề nghị chánh án Prescott cho ba tháng để chuẩn bị bào chữa. Tòa cho hoãn ngày xử đến 17 tháng Năm.
Abel lại được tự do, đàng hoàng ra đối diện với báo chí và nhiếp ảnh. Lái xe đã cho xe chờ sẵn dưới bậc thềm và mở cửa sau. Máy đã nổ sẵn, người lái xe phải khéo lắm mới khỏi đụng vào các phóng viên báo chí vẫn đi theo hỏi chuyện. Về đến đường 57 rồi, Abel mới để tay lên vai George:
– Bây giờ nhé, George, anh sẽ trực tiếp quản lý công ty trong thời gian ba tháng để tôi chuẩn bị việc chống án với ông Jilks. Ta hãy hy vọng là sau đó anh sẽ không phải một mình quản lý công ty nữa, – Abel gượng cười nói.
– Cố nhiên là không rồi, Abel. Ông Jilks sẽ gỡ được cho anh, rồi anh xem. – George xách cái cặp lên và cầm lấy cánh tay Abel. – Anh cứ yên trí, – ông nói rồi từ giã hai người kia.
Khi vào ngồi trong phòng khách rồi, Abel nói với nhà luật sư.
– Tôi không biết là nếu không có George thì tôi xoay xở ra sao. Hai chúng tôi cùng đi tàu đến đây từ gần bốn chục năm trước, và cùng trải qua không biết bao nhiêu gian khổ. Bây giờ xem ra trước mắt vẫn còn nhiều gian khổ chứ chưa hết. Thôi, ta tiếp tục làm cái gì đó đi, ông Jilks. Ông không có tin gì mới về Henry Osborne sao?
– Không, nhưng tôi có sáu người đang đi tìm và tôi biết là Bộ Tư pháp ít ra cũng có sáu người nữa. Vì vậy, có thể chắc chắn là sẽ tìm ta ông ta, tất nhiên là không thể cho họ tìm thấy trước.
– Còn cái người mà Osborne bán hồ sơ cho anh ta?- Abel hỏi.
– Tôi đã có người tin cậy ở Chicago được phân công tìm rồi.
– Tốt, Abel nói. – Bây giờ đến lúc xem lại cái hồ sơ tên tuổi ông để lại cho tôi đêm qua.
Tranfford Jilks bắt đầu bằng việc đọc lại lời tuyên án của tòa, rồi sau đó cùng với Abel đi vào chi tiết của từng tội trạng.
Sau gần ba tuần gặp nhau liên tục như vậy và Jilks tin rằng Abel không còn có điều gì khác nữa để nói, ông ta đành để cho khách hàng của mình được nghỉ ngơi. Suốt ba tuần đó mà không có gì đưa đến tìm hiểu hiện nay Henry Osborne đang ở đâu. Cả những người của Jilks và của BỘ tư pháp đều chịu không tìm ra. Người của Jilks cũng không làm sao tìm được người mà Henry bán tài liệu cho. ông luật sư bắt đầu tự hỏi không biết Abel có hoàn toàn đúng không.
Ngày xử đã đến gần, Albel đã có ý nghĩ rằng không chừng mình có khả năng là phải ngồi tù thật. Bây giờ ông cũng đã năm mươi lăm tuổi. ông lo ngại nghĩ đến triển vọng những năm cuối của đời mình sẽ giống như những năm đầu đã bị tù tội. Tranfford Jilks cũng đã cho thấy là nếu Chính phủ chỉ cần chứng minh một trường hợp thôi thì hồ sơ đó của Osborne đã đủ cho Abel ngồi tù rất lâu rồi. Abel lấy làm căm tức về sự
bất công này – ông cảm thấy thật bất công. – Những việc phi pháp mà Henry Osborne đã nhân danh ông để làm ấy tuy có thật nhưng không phải là cá biệt.
Abel tin rằng không có thứ kinh doanh mới nào phát triển được hoặc không thể có thứ tiền nào kiếm ra được nếu không có những chuyện đấm đút hối lộ cho một số người đã được nêu tên trong hồ sơ này. Ông nghĩ đến vẻ mặt bình tĩnh thản nhiên của anh chàng William Kane ngồi ở Boston những năm xưa, trên một đống tiền được thừa hưởng mà rất có thể là nguồn gốc của những tiền ấy đều nhơ bẩn cả nhưng được che đậy dưới cái vỏ đẹp đẽ từ bao nhiêu đời rồi.
Florentyna viết cho ông một bức thư rất cảm động, kèm theo mấy tấm ảnh con trai của cô, cô nói cô vẫn yêu vẫn kính trọng Abel và tin rằng ông vô tội.
Ba ngày trước khi xử, Bộ tư pháp tìm ra Henry Osborne ở New Orleans. Lẽ ra họ không thể biết ông ta là ai nếu như ông ta không vào một bệnh viện ở địa phương với hai cái chân bị gãy. Một viên cảnh sát phát hiện ra Henry bị thương là do quỵt nợ đánh bạc.
Ở New Orleans người ta rất ghét cái trò này. Viên cảnh sát xác định được đâu ra đấy rồi, tối hôm đó, sau khi bệnh viện đã bó bột cho hai chân của Osborne, cho ông ta ra xe lên máy bay đưa về New York.
Henry Osborne ngay ngày hôm sau bị kết tội âm mưu trốn tránh và cũng không được nộp tiền để tạm tha. Tranfford Jilks xin phép tòa cho ông được hỏi Osborne. Tòa cho phép nhưng Jilks hỏi chuyện mà cũng chẳng biết được gì hơn. Hình như đã rõ ràng và Osborne có mặc cả với chính phủ, trong đó ông ta hứa là sẽ khai hết tội cho Abel cốt để nhẹ tội cho bản thân ông ta.
– Hẳn là ông Osborne sẽ chỉ bị tội rất nhẹ thôi, – ông luật sư lặng lẽ bình luận, – hắn sẽ chơi cái trò ấy đấy!
Abel nói.
– Tôi thì chịu đòn, còn hắn thì thoát.
– Bây giờ thì chúng ta coi như chịu, không biết là hắn đã bán cái hồ sơ chết tiệt ấy cho ai.
Không, ông nhầm đấy ông Rosnovski. ĐÓ là điều ông ta nói ra, – Jilks nói. – Ông ta bảo không phải William Kane. Trong bất cứ hoàn cảnh nào ông ta cũng không bao giờ bán hồ sơ cho Kane. Một người ở Chicago gọi báo cho biết là Harry Smith đã trả tiền mặt cho Osborne để lấy tài liệu đó. Mà ông biết đấy, Harry Smith chỉ là cái tên giả. ở Chicago có đến hàng chục Harry Smith mà không một ai khớp với người như đã mô tả.
– Tìm người đó đi, – Abel nói. – ông phải tìm ra ông ta trước khi tòa xử.
– Chúng tôi đã làm việc đó rồi, – Jilks nói. – Nếu ông ta còn có ở Chicago thì chúng tôi đã giữ ngay trong tuần rồi. Osborne còn nói là cái ông Smith nào đó đảm bảo chỉ dùng tài liệu này cho mục đích riêng thôi chứ không có ý định tiết lộ nội dung cho bất cứ ai trong chính quyền.
– Nhưng tại sao cái ông “Smith” đó lại cần đến những chi tiết ấy làm gì? – Abel hỏi.
– Tôi đoán là có sự tống tiền, vì vậy mà Henry Osborne phải biến đi, để tránh mặt ông. Ông nghĩ xem, ông Rosnovski, có thể là ông ta nói thật. Vả lại, khi nghe nói hồ sơ này đã nằm trong tay BỘ tư pháp thì ông ta cũng lo sợ và thất vọng chẳng kém gì ông khi nghĩ đến những gì sẽ bị tiết lộ. Cho nên tôi không lấy làm lạ thấy ông ta trốn tránh và đến khi bị bắt thì ông ta sẵn sàng khai ra hết.
– Ông biết không, Abel nói, – cái lý do duy nhất tôi dùng con người đó chỉ vì ông ta cũng căm ghét Kane như tôi căm ghét vậy, và đến bây giờ thì Kane chơi cả hai chúng tôi.
– Không có chứng cớ gì cho thấy ông Kane có dính líu vào đây, – Jilks nói.
– Tôi không cần chứng cớ.
Vụ xử được hoãn lại theo yêu cầu của Chính phủ, vì người ta cần có thêm thời gian để thẩm vấn Henry Osborne trước khi quyết định đưa ra xử. Bây giờ ông ta là nhân chứng chủ yếu trong vụ án. Tranfford Jilks kịch liệt phản đối và báo cho tòa biết rằng sức khỏe của khách hàng của ông, bây giờ không còn là một người trẻ tuổi nữa, đang mỗi ngày một sa sút vì bị căng thẳng với những lời buộc tội sai lầm. Chánh án Prescott không nghe. Ông đồng ý với yêu cầu của Chính phủ và hoãn vụ xử thêm bốn tuần nữa.
Thời gian một tháng ấy đối với Abel thật dài, và hai ngày trước khi đưa ra xử, ông đành cho là mình có tội và sẵn sàng chịu án tù một thời gian dài. Thế rồi bỗng người của Tranfforđ Jilks báo tin ở Chicago tìm ra người có tên là Harry Smith, và anh này lại hóa ra một thám tử tư nhân ở địa phương mang tên giả vì khách hàng của anh ta buộc phải như vậy, và khách hàng đó là một công ty luật gia ở New York: Jilks phải bỏ ra một ngàn đô la và mất hai mươi bốn giờ nữa mới được anh chàng Harry Smith này cho biết công ty luật gia ấy là Cohen và Yablons.
– Luật gia của Kane rồi, – Abel nói ngay.
– Ông chắc thế không? – Jilks hỏi.- Căn cứ những điều tôi biết về William Kane thì ông ta không bao giờ dùng đến một công ty của người Do thái đâu.
– Trước đây, khi tôi mua những khách sạn từ ngân hàng Kane thì mọi thứ giấy tờ đều do một người có tên là Thomas Cohen làm. Vì một lý do nào đó, ngân hàng dùng hai luật gia để làm việc chuyển khoản.
– Vậy anh muốn tôi làm gì về việc này,- George hỏi Abel.
– Không nên làm gì hết, – Tranfforđ Jilks nói.- Trước vụ xử, chúng ta không nên làm cho rắc rối thêm. Ông hiểu chứ, ông Rosnovski ?
– Vậy, – Abel nói. – Xử xong tôi sẽ tính chuyện với Kane. Bây giờ, ông nghe đây nhé, ông Jilks, ông hãy nghe cho kỹ. ông phải quay lại chỗ Osborne ngay và bảo cho ông ta biết là hồ sơ đó đã do Harry Smith bán cho William Kane và Kane đã dùng nó để trả thù cả hai người, ông nhớ nhấn mạnh vào chỗ “cả hai người”. Tôi cam đoan với ông là khi Osborne nghe nói thế, ông ta sẽ không mở miệng nói gì ở ghế nhân chứng đâu dù cho ông ta đã hứa bất cứ gì với Bộ Tư pháp. Henry Osborne là người duy nhất còn sống để mà căm ghét Kane hơn là tôi ghét nữa kia.
– Tùy ông thôi, – Jilks nói, tuy có vẻ không thông lắm. – Nhưng tôi vẫn phải nói trước để ông biết, ông Rosnovski, rằng ông ta sẽ cứ đồ hết tội cho ông đấy, vì cho đến bây giờ ông ta đã làm một tí gì để đỡ cho ông đâu.
– Ông hãy cứ tin ở tôi, ông Jilks. Nghe nói đến Kane có dính líu vào đây là lập tức ông ta sẽ thay đổi thái độ ngay.
Tối hôm đó, Tranfford Jilks được phép vào thăm Henry Osborne mười phút trong nhà giam. Osborne nghe ông nói nhưng không có phản ứng gì. Jilks tin chắc là điều mình vừa nói không hề tác động chút nào đến nhân chứng đó của Chính phủ. Ông quyết định để đến sáng hôm sau sẽ nói lại cho Abel Rosnovski biết. Ông muốn để khách hàng của mình được một đêm ngủ yên trước khi vụ xử tiến hành vào hôm sau.
Bốn tiếng đồng hồ trước khi vụ xử bắt đầu, người gác nhà giam đem thức ăn sáng vào cho Henry Osborne đã thấy ông ta treo cổ từ bao giờ.
ông ta đã dùng chiếc ca vát Harvard để tự tử.
Vụ xử tiến hành mà không có nhân chứng gì, vì vậy phải kéo dài. Sau khi nghe Tranfford Jilks trình bày về tình trạng sức khỏe của khách hàng mình, Chánh án Prexott đã bác đi. Công chúng theo dõi từng tý một vụ xử Nam tước Chicago trên truyền hình và báo chí. Điều khủng khiếp cho Abel hơn cả là ông thấy Zaphia ngồi trong đám công chúng với vẻ như khoan khoái được thấy ông khổ sở. Sau chín ngày ở tòa, công tố thấy vụ xử này không đứng vững lắm bèn tính chuyện mặc cả với Tranfford Jilks. Trong một lúc nghỉ, Jilks nói lại cho Abel biết về ý của tòa.
– Họ sẽ bỏ không buộc tội hối lộ nếu ông nhận là mình có thiếu sót đối với hai trường hợp nhỏ định mua chuộc quan chức.
– Nếu tôi không nhận gì hết thì liệu có cơ hội thoát không?
– Tôi nghĩ là chỉ có một nửa cơ hội thôi, – Jilks nói.
– Thế nếu không thoát thì sao?
– Chánh án Prescott găng lắm. Xoàng ra cũng sáu năm tù, không kém được một ngày.
– Còn nếu tôi chịu và nhận hai cái lỗi nhỏ kia thì sao?
– Thì chịu phạt nặng đấy. Tôi chắc chỉ đến thế là cùng, – Jilks nói.
Abel ngồi suy nghĩ một lát.
– Được tôi nhận tội. Cho xong cái chuyện chết tiệt này đi.
Các luật sư của chính phủ báo cho chánh án biết là họ hủy bỏ mười lăm tội trạng của Abel Rosnovski.
Tranfford Jilks đứng lên nói trước tòa rằng khách hàng của ông nhận hai tội còn lại kia là có thiếu sót trong hành động. Đoàn thẩm phán được cho trở lại và chánh án Preseott trong khi kết luận đã phê phán Abel rất mạnh, nhắc nhở cho ông ta biết rằng trong cái quyền làm ăn kinh doanh không bao gồm cả quyền mua chuộc công chức nhà nước. Hối lộ là một tội ác, và tội ác đó lại càng nặng nếu nó được tiến hành bởi một người có hiểu biết và có quyền thế, mà những người như vậy không ai lại hạ mình xuống mức đó. ở những nước khác, ông chánh án nói thêm, khiến cho
Abel lại vẫn cảm thấy như mình với nhập cư, hối lộ có thể được chấp nhận như một hành động bình thường trong đời sống hàng ngày nhưng ở trên đất Hoa Kỳ này thì không thế được. Chánh án Prescott tuyên án Abel sáu tháng tù treo với 25.000 đô la tiền phạt, cộng với các khoản chi phí khác.
George đưa cho Abel trở về khách sạn Nam tước. Hai người ngồi trên tầng thượng uống rượu whisky đến hơn một giờ đồng hồ, rồi cuối cùng Abel nói:
– George này, tôi muốn anh tiếp xúc với Peter Parfitt và trả cho ông ta một triệu đô la để lấy cái hai phần trăm trong ngân hàng Lester đi, vì một khi đã nắm trong tay được tám phần trăm cổ phần của ngân hàng là tôi sẽ có thể vận dụng Điều khoản 7 trong quy chế, và tôi sẽ giết William Kane ngay trong phòng giám đốc của hắn.
George gật đầu buồn bã. ông sợ rằng trận chiến vẫn chưa kết thúc.
*******
Mấy ngày sau Bộ Ngoại giao thông báo Ba Lan đã được hưởng quy chế tối huệ quốc trong việc buôn bán với Hoa Kỳ, và đại sứ tương lai của Mỹ ở Warsaw sẽ là John Moors Cabot.