“Hây!”
Hàn Lập bỗng nhiên gầm to một tiếng, hai tay kết xuất một cái pháp ấn cổ quái, thân mình vẫn không nhúc nhích, nhưng từ trong lỗ mũi lại thở ra một lục sắc quang đoàn lớn nhỏ bằng ngón cái, bay nhanh đến chỗ Khúc Hồn cũng theo lỗ mũi đi vào trong cơ thể.
Mà lúc này sắc mặt Hàn Lập đã tái nhợt vô cùng, mồ hôi đổ xuống, nhưng bạch sắc trong mắt lại càng thêm chói sáng, cuối cùng từ trong mắt trực tiếp phún xuất hai luồng bạch quang tinh tế, bắn thẳng vào trong đôi mắt của Khúc Hồn, hai người không hẹn mà thân thể cùng run lên…
Thạch môn luyện công mật thất này đóng cửa chính là đã hơn một tháng, thẳng đến trung tuần tháng thứ hai, thạch môn mật thất rốt cục cũng chậm rãi mở ra, Hàn Lập từ bên trong đi ra vẻ mặt tiều tụy nhưng thần sắc có vẻ cực kỳ hưng phấn.
Lần này tế luyện phân thân, rốt cuộc thành công trong đau khổ.
Tuy còn không biết hiệu quả như thế nào nhưng tối thiểu không xuất hiện hiện tượng pháp phản, điều này làm cho Hàn Lập thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng vừa ra khỏi mật thất, hắn lại lập tức tiến vào một gian thạch thất bắt đầu bế quan.
Lần tế luyện này làm cho nguyên khí của hắn cũng tổn thương không nhẹ, nếu không lập tức phục dược luyện khí, chỉ sợ sẽ có nguy cơ rơi xuống tu vi Luyện Khí kỳ.
Cho nên trong khi tế luyện hóa thân Khúc Hồn, bởi vì phân thần còn chưa hoàn toàn nắm giữ khu thể (điều khiển thân thể), đành phải ở lại trong mật thất tiếp tục thích ứng.
Ngắn ngủn vài tháng sau, Hàn Lập liền khôi phục nguyên khí tổn thương, nhưng lại vẫn không xuất quan mà lại trực tiếp nghiên cứu phương pháp tu luyện “Tam chuyển trọng nguyên công”.
Phương pháp tu luyện “Tam chyển trọng nguyên công” đã nói rất rõ ràng, người tu luyện đạt tới tu vi Trúc cơ hậu kỳ liền tản mát đại bộ phân tu vi “Thanh Nguyên Kiếm Quyết” theo Trúc cơ lúc đầu trở lại tu luyện, đồng thời đem chân nguyên tiến hành áp súc ngưng tụ, tận lực làm dịch hóa chân nguyên Trúc cơ kỳ càng nhiều càng tốt, như vậy sẽ giảm bớt được bình cảnh trở lực khi kết đan.
Theo như vị cao nhân sáng lập công pháp này phỏng đoán, qua ba lượt tán công rồi tu luyện lại, sẽ có một nửa khả năng có thể kết thành kim đan.
Hàn Lập tán công xong, tuy không có đạt tới tu vi Trúc cơ hậu kỳ, mà là ở Trúc cơ trung kỳ thì cũng cảm thấy ngoài ý muốn với việc tán công này.
Nhưng hắn cũng không thèm để ý việc này!
Trên ngươi Hàn Lập xem ra Trúc cơ hậu kỳ cùng Trúc cơ trung kỳ tán công cũng khác nhau, chính là vấn đề ở chỗ áp súc ngưng tụ chân nguyên ít hay nhiều.
Chỉ cần áp súc cố hóa chân nguyên thẳng một đường không có biến hóa gì, hơn nữa về sau hai lần tới Trúc cơ hậu kỳ lại tán công, thì sẽ không còn bất cứ trở ngại nào nữa.
Hàn Lập dốc lòng nghiên cứu “Tam chuyển trọng nguyên công”, mấy tháng sau tự mình hoàn toàn lĩnh ngộ thấu triệt công pháp, liền điều chế đại lượng đan dược rồi tiến vào mật thất.
Hắn lần này hạ định quyết tâm, không đem công pháp này luyện thành, luyện đến tầng thứ sáu Thanh Nguyên kiếm quyết, tuyệt không xuất động phủ.
Cho nên dung hợp thân thể Khúc Hồn, Hàn Lập không ngừng phục dụng đan dược luyện khí, làm chuẩn bị cho Trúc cơ tiền kỳ.
Bởi vì linh căn Khúc Hồn là “Tam linh căn” thuộc tính, còn tốt hơn nhiều so với tư chất Hàn Lập, cho nên dùng đan dược hiệp trợ, tốc độ tu luyện của hắn cơ hồ không kém gì Hàn Lập, tu vi điên cuồng tăng lên.
Như Hàn Lập phỏng chừng, chỉ gần hai năm liền có thể Trúc cơ.
Hơn nữa Hàn Lập đã sớm tán phát hôi bạch chi khí (khí màu xám trắng) từ trong ngọc giản, thiêu xuất ma công Việt hoàng tu luyện “Huyết luyện thần quang”, đem cho Khúc Hồn tu luyện sau khi Trúc cơ.
Dù sao ma công này trên người Việt hoàng rất cường đại, chính mắt hắn thấy được.
Cho nên sau khi kết đan, công pháp này không có pháp quyết để tiếp tục tu luyện, không thể tiến thêm được một tầng, Hàn Lập cũng không vì vậy mà để ý.
Bởi vì cho dù Sát Đan kết thành, phân thi Khúc Hồn này cũng chỉ có thể duy trì tại tu vi Kết đan sơ kỳ, có hay không công pháp sau đó cũng không khác nhau.
Hàn Lập lần tu luyện này, thời gian thật sự là dài!
Tục ngữ nói không sai, tu luyện vô tuế nguyệt (không năm tháng), đảo mắt đã hơn hai mươi năm qua đi.
Hàn Lập ở trong mật thất lâu như vậy thực không có rời khỏi động phủ, cũng không có hiện thân trước mặt cư dân trên đảo.
Mà Tiểu Hoàn Đảo từ khi vị tiên sư Hàn Lập đến đây, về sau đối với mấy trăn dân cư trên trấn mà nói cơ hồ không có ảnh hưởng gì.
Cho nên ngư dân trên đảo vẫn đánh cá ngày ngày.
Đương nhiên, rõ ràng có thể thấy được hai ngọn núi bị bạch vụ nồng đậm che dấu đi, trở nên mơ hồ không rõ, làm phàm nhân cư dân trên Tiểu Hoàn Đảo lúc đầu có chút không thích ứng.
Nhưng năm tháng qua đi, người trên trấn cũng thành thói quen với cảnh tượng này, trở nên bình thường.
Chẳng qua người trên trấn đã được đại nhân dặn dò, ngàn vạn lần không tới phụ cận ngọn núi sát bạch vụ kia.
Bởi vì chỉ cần vừa đi vào, sẽ hoàn toàn bị lạc phương hướng, không thể đi tới đích, chỉ có bị mệt nhọc mấy ngày nếm đủ đau khổ, phải kêu to “Hàn tiên sư” mấy tiếng, sau đó mới có thể xuất hiện đạo lộ thoát khốn đi ra ngoài.
Liên tiếp vài lần xuất hiện loại sự việc này, cư dân trên trấn tự nhiên biết được vị Hàn tiên sư này không thích có người quấy rầy.
Nhưng chỉ cần không lại gần ngọn núi mà chỉ chặt cây hái củi gần Tiểu Hoàn Sơn thì sẽ không hề bị gì.
Hơn nữa linh thạch khuyết thiếu hàng năm của phòng hộ trận pháp trên thôn trấn, chỉ cần trưởng trấn đứng ở bên ngoài bạch vụ hướng về phía ngọn núi kêu lớn vài tiếng, linh thạch cần thiết cho một năm sẽ ở trong một cái khay tự động từ trong bạch vụ bay ra, chỉ cần người tới đem linh thạch trở về, mọi chuyện sẽ xong xuôi.
Đương nhiên hai mươi năm qua đi, nguyên trưởng trấn đã sớm thay thế. Hiên tại trưởng trấn mới của Tiểu Hoàn Đảo mà Hàn Lập nhìn thấy chính là ngư dân mặt đen Hắc Quý, chẳng qua hắn muốn linh thạch cũng có được theo cách cũ.
Cứ như vậy, cư dân trên Tiểu Hoàn Đảo đối với vị Hàn tiên sư không có ủng hộ gì cực kỳ nhưng cũng có được ấn tượng tốt trong dân.
Nhưng một ngày này, Hàn Lập đi ra khỏi động phủ.