Tân Hiệp Nghĩa lại gập mình xuống, ho sặc sụa rồi cất giọng tắc nghẹn, đau khổ nói: “Một lần thống khổ, sau này ta sẽ không uống rượu nữa. Các ngươi mau giúp ta nôn toàn bộ số rượu trong bụng xuống sông đi.”
Mọi người nghe xong đưa mắt nhìn nhau, lộ vẻ ngại ngần, nhưng đều yên tâm lại vì biết lão không muốn tìm cái chết.
Bàng Nghĩa lại thăm dò: “Chi bằng Tần lão về phòng nghỉ ngơi đi!”
Tân Hiệp Nghĩa bỗng nhiên như già đi vài tuổi, cười thê lương: “Tần lão? Ta mà là lão ư? Ài! Ta quả thực đã già rồi, ngựa già nằm phục, chí ngoài ngàn dặm. Chỉ hận là bạch đầu danh tướng có chí ngoài ngàn dặm cũng làm được gì? Chim muông hết thì cung tên bị cất, quân địch hết thì mưu thần cũng hết đời. Đương kim hoàng thượng hôn ám, kẻ gian nịnh lộng quyền. Tấn Thất loạn lạc, đại nạn đến nơi mà lớp mình lại không thấy có người kế tục. Phải chăng ông trời muốn diệt vong Đại Tấn ta? “
Mọi người không ai có cách gì trả lời lão, nhưng cảm thấy đã hiểu hơn về con người lão rất nhiều.
So với lúc lão sấn lên thuyền thì Tân Hiệp Nghĩa trước mắt giống như là người khác, không thể khôi phục lại phong độ đại hiệp thế thiên hành đạo như lúc đầu. Tỉnh rượu rồi, lão sẽ từ trong giấc mộng đẹp quay trở lại hiện thực tàn khốc và hiểu rõ mình chỉ là một người bất đắc chí, không hề có tác dụng gì cho cục thế trước mắt.
Tân Hiệp Nghĩa lắc đầu than “Nhớ năm đó….”
Mọi người ai nấy trong lòng kêu khổ, nếu để lão nói về những chuyện vài chục năm trước thì mọi người đều phải bồi tiếp hóng gió với lão, không thể ngủ nghê gì được.
May là Tân đại hiệp bỗng nhiên trở nên trầm mặc, cười khổ: “Có gì hay ho mà phải nghĩ nữa đây? Ngày ta tuốt kiếm hành hiệp, ân cừu đều khoái ý, bây giờ thì rơi vào kết cục nào rồi?”
Nói xong, lão quay lại, đối mặt với mọi người đang trố mắt nhìn lão, miễn cưỡng nở nụ cười nói: “Các ngươi có biết vì sao dù phải bán nhà bán đất ta cũng phải lo cho được tiền đến Biên Hoang không?”
Cao Ngạn thay cho mọi người lắc đầu.
Tân Hiệp Nghĩa không nói ra nguyên nhân, loạng choạng tiến về phía khoang thuyền, vừa đi vừa hát: “”Vô danh loài sâu kiến, hữu danh thế gian hiềm. Trung dung khó có thể, cuồng loạn không gặp thời.”
Tiếng ca cùng với lão biến mất dần vào trong khoang thuyền.
Diêu Mãnh thở ra một hơi, lấy tay ra hiệu cho hai huynh đệ đi theo lão để giúp lão lên giường ngủ yên.
Một trận nhiệt náo cuối cùng cũng kết thúc.
Cao Ngạn gãi đầu: “Có ai biết lão hát cái gì không?”
Trác Cuồng Sinh từ trên tầng ba nói vọng xuống: “Cao tiểu tử có điểm không rõ rồi. Khi Viên Hoành lưu lãng giang hồ đã sáng tác một bài ca trứ danh là “Vịnh sử thi” mà ngươi cũng không biết. Ý nghĩa đầu tiên của bài thơ này là “người không có thanh danh thì như con sâu cái kiến bị người khác giẫm đạp. Nếu có thanh danh thì lại bị người ta nghi kỵ, không thể giữ được con đường trung dung, quá cực đoan thì bị người ta phỉ nhổ.’ Nói tóm lại là than thế gian hiểm ác, tiến thoái lưỡng nan. Hiểu chưa?”
Cao Ngạn không vui nói: “Loại thi ca này không biết thì hơn. Lão tử không có thừa thời gian nghĩ tới nó.”
Trác Cuồng Sinh nói: “Mau lăn lên đây cho ta. Chúng ta cần nghiên cứu làm sao phân phối thượng phòng cho khách quý ngày mai đây. Ngươi tưởng có thể thu được tiền dễ dàng thế sao?”
Lưu Dụ ngồi trong góc phòng khách tối đen, suy nghĩ cuộn lên như sóng trào.
Sự thanh tĩnh của ngôi chùa lại không thể làm tâm cảnh gã có thể an tĩnh lại được.
Nếu như ngày mai gã không có đối sách ứng phó Tư Mã Đạo Tử và Lưu Lao Chi thì gã chỉ còn cách thúc thủ chờ người đến giết.
Bất kể là Tư Mã Đạo Tử hoặc Lưu Lao Chi đều khẳng định đã có kế hoạch chu toàn để đối phó với gã.
Chúng sẽ xử trí mình như thế nào đây?
Gã hoan nghênh nhất là hai người bọn chúng mượn tay Tôn Ân giết gã. Chỉ cần phái gã đi cầm quân thì gã có khả năng một lần nữa dùng ít thắng nhiều như trong cuộc chiến Diêm Thành.
Chỉ hận đó chỉ là hy vọng xa vời. Đã có bài học lần trước khi Tiêu Liệt Vũ bị chém chết nên chúng sẽ tuyệt không dành cho gã tiện nghi như thế. Lưu Lao Chi sẽ không ngu xuẩn đến mức phái gã đi giết Tôn Ân, nếu không thành công sẽ dùng quân pháp trị tội gã.
Bọn chúng tuyệt không phải là những người mưu lược thấp kém.
Thật ra, tình hình lần này ác liệt hơn nhiều so với lần trước bị phái đi Diêm Thành đánh hải tặc. Khi đó, ít nhất thì gã còn có tự do để làm việc, lại có được sự giúp đỡ và viện trợ, tuyệt không phải đơn thân độc lực tác chiến.
Lần này đến Kiến Khang, gã có cảm giác như mình bị trói chặt chân tay rồi đưa vào một miền đất toàn ác thú để làm mồi cho chúng.
Mất đi sự tri chì của Tạ Diễm, gã không còn chỗ dựa để giữ mạng. Nếu như không thể phá giải cục diện bế tắc không lối ra đó thì gã tuyệt không thể có cơ hội may mắn nữa.
Gã chọn con đường ở lại, không phải vì có phương pháp ứng phó với thế yếu trước mắt, mà gã hiểu rõ căn bản mình không còn đường lùi. Tâm trạng này làm gã tuyệt không thể vì sự uy hiếp của tử vong mà lùi bước. Gã cần một lần nữa hòa nhập vào hệ thống Đại Tấn, ổn định trận cước trong Bắc Phủ binh. Gã chỉ cần chịu đựng được đến lúc Hoàn Huyền dẫn quân Đông tiến thì cơ hội của gã sẽ tới. Vì để báo thâm cừu cho Vương Đạm Chân, vì những huynh đệ Hoang nhân và Bắc Phủ binh ủng hộ gã, gã nguyện đem cái mạng nhỏ của mình ra đánh một canh bạc. Nếu như thất bại, đối với người và đối với mình đều không còn gì đáng tiếc nữa. Vào thời khắc này, gã thể hội sâu sắc câu mà người già thường hay nói “đặt mình vào chỗ chết để tìm đất sống”.
Trong việc mưu sát mình, Tư Mã Đạo Tử và Lưu Lao Chi khẳng định sẽ trung thành hợp tác. Đơn giản nhất là làm cho mình lâm vào tuyệt địa không thể chạy trốn, rồi dùng khí thế như lôi đình vạn quân giết phăng mình đi, hoặc dùng thủ đoạn ti bỉ để thiết pháp**** hãm hại rồi khép mình vào trọng tội.
Hiện giờ, gã hoàn toàn do địch nhân bố trí, không tự chủ được bản thân. Gã có thể không nghe theo mệnh lệnh của Lưu Lao Chi được sao?
Vì thế, đêm nay là cơ hội cuối cùng của gã. Nếu như không nghĩ ra được phương pháp đối kháng thì ngày mai, khi gặp Lưu Lao Chi, vận mệnh của gã sẽ không còn do gã làm chủ nữa.
Liệu có phương pháp nào đây?
Vương Tuần, cha của Vương Hoằng có thể giúp được gì không?
Ài!
Nói cho cùng, bất kể Vương Tuần có địa vị thế nào trong triều đình Kiến Khang thì lão vẫn chỉ là văn thần, không thể nhúng tay vào việc quân do Tư Mã Đạo Tử và Lưu Lao Chi nắm trong tay. Làm phiền lão chỉ lộ ra mình đã đến bước đường cùng, không thể nghĩ ra được chiêu số nào cao minh hơn để có thể giữ mệnh.
Chi Độn thì sao?
Đương nhiên Phật môn có ảnh hưởng lớn lao ở Kiến Khang, nhưng lại không có vai trò gì trong việc an bài nhân sự trong quân đội.
Nhưng nếu thỉnh Chi Độn thuyết phục Tạ Diễm, liệu có thể làm Tạ Diễm hồi tâm chuyển ý không?
Lưu Dụ lập tức từ bỏ ngay ý nghĩ này. Chủ yếu là vì gã nghĩ tới vẻ mặt đáng ghét của Tạ Diễm lúc đuổi gã khỏi Tạ phủ. Con người cần phải sống có cốt khí, thứ đồ bố thí thực không thể nhận được. Gã lại hoài nghi Chi Độn không có sức ảnh hưởng lớn đến thế đối với con người cố chấp như Tạ Diễm.
Nghĩ đi nghĩ lại nhưng vẫn không nghĩ được kế hoạch nào hay.
Lưu Dụ trong lòng kích động bừng bừng. Thế này cũng không được, thế kia cũng không được, chi bằng đến phòng bên đánh thức Tống Bi Phong dậy, lập tức trong đêm ly khai Kiến Khang, ngấm ngầm trở về Quảng Lăng, tiến hành một cuộc binh biến đoạt quyền trong Bắc Phủ binh rồi quay về thảo phạt Tư Mã Đạo Tử và Lưu Lao Chi.
Đây là một ý nghĩ rất hấp dẫn, nhưng Lưu Dụ cũng biết việc đó chỉ nên nghĩ trong đầu. Gã sẽ không làm như thế.
Những lời nói của Tạ Huyền đối với gã vẫn còn rõ rệt trong ký ức. Muốn trở thành chủ soái mà mọi người đều bán mạng cho mình thì gã phải trở thành một anh hùng mà mọi người đều kính ngưỡng chứ không phải là người trong lúc quốc gia dầu sôi lửa bỏng lại phản bội làm loạn, khiến cho loạn càng thêm loạn, tăng thêm nỗi khổ nạn của dân chúng.
Lưu Dụ gã xuất thân áo vải, từ tầng lớp thấp hèn nhất trong xã hội nên hiểu rõ hơn ai hết nỗi khổ của dân.
Trong lúc thiếu chút nữa thì gã đã buông xuôi, phó mặc mệnh mình cho ông trời thì đầu óc bỗng nhiên lại bừng tỉnh.
Hai người muốn giết gã nhất tại Kiến Khang là Lưu Lao Chi và Tư Mã Đạo Tử. Đó là hai người có quyền thế nhất của Đại Tấn ngoài Hoàn Huyền. Dù là phương pháp hữu hiệu thế nào thì cũng phải do hai người này nghĩ ra.
Chúng có sơ hở và nhược điểm nào không?
Nhược điểm duy nhất của Lưu Lao Chi là bề ngoài luôn ra vẻ ngày càng sủng ái gã hơn, nên trong Bắc Phủ binh thì gã vẫn an toàn.
Nhưng chỉ cần y tìm một cớ nào đó, điều mình sang chỗ Tư Mã Đạo Tử thì mình sẽ chết không có đất chôn.
Vì thế, điểm quan trọng vẫn là chỗ Tư Mã Đạo Tử. Có thể làm gã phát sinh ý kiêng dè chính là Trần công công, người đã làm gã không ứng phó nổi.
Âm mưu thủ đoạn của Tư Mã Đạo Tử vô cùng tận. Việc này bản thân gã đã trải nghiệm rất sâu sắc. Trừ phi gã là chân mệnh thiên tử, nếu không tất sẽ khó thoát khỏi độc thủ của Tư Mã Đạo Tử.
Ài! Chân mệnh thiên tử? Giả làm chân mệnh thiên tử thật không dễ dàng. Kẻ nào biết được sự thật này chắc sẽ cười đến chết mất!
Bỗng nhiên trong đầu gã linh quang chợt hiện, nghĩ tới một người.
Lưu Dụ đứng thẳng người lên.
Hít sâu một hơi.
Gã tưởng chừng như trong bóng tối tuyệt đối và lạnh lẽo ấy đã nhìn thấy một điểm sáng, cảm thấy một tia ấm áp.
Gã từ từ cầm hậu bối đao đang cắm trong vỏ để trên mặt bàn lên, đồng thời sắp xếp lại những ý nghĩ trong đầu, đeo đao lên lưng.
Gã cảm thấy lịch sử đang lặp lại.
Ngày đối mặt với liên quân Lưỡng Hồ – Kinh Châu, vì Cao Ngạn thỉnh cầu đã khơi dậy linh cơ giúp gã nghĩ ra được toàn bộ đại kế tác chiến phá địch và đạt được thành tựu chưa từng có. Bây giờ, khi nghĩ về con người đó làm gã trong tình huống gần như vô kế khả thi lại nghĩ ra được một nhược điểm trong liên minh chặt chẽ giữa Tư Mã Đạo Tử và Lưu Lao Chi, hai kẻ đang muốn giết gã.
Kế này có thể thực hiện được không chỉ có ông trời mới biết được. Nhưng gã phải thử một lần.
Chỉ cần có một phần hy vọng gã cũng muốn thử.
Chú thích:
* Trời phù hộ Đại Tấn, vận nước hưng thịnh.
** Đường lớn dẫn đến Hoàng cung
*** Lời thật mất lòng
**** Tìm cách