“Đúng, vị trí gan của hắn bị người ta dùng một vật đánh trúng, gây nứt gan, không ngừng chảy máu trong đến nỗi nguy tới tính mạng. Trước khi bản quan phẫu thuật cho hắn đã phát hiện ở vị trí của gan rõ ràng có vết ngoại thương, giống với vết giày. Loại vết thương này tuyệt đối không thể xem thường nên bản quan nghi ngờ Tô Đại thiếu gia bị người khác dùng chân đá bị thương, có người cố tình đả thương Tô Đại thiếu gia làm bị trọng thương. Việc này đã vi phạm hình luật nên phải điều tra rõ ràng, đưa hung phạm ra công lý”.
Mọi người giật mình kinh hãi. Huyện uý là người quản lý các vụ án. Huyện uý Gia châu họ Lưu vội vàng đứng dậy, ôm quyền khom lưng nói: “Đại nhân có từng hỏi Tô đại công tử là ai đã gây thương tích không? Hạ quan sẽ lập tức đi bắt về quy án”.
Đỗ Văn Hạo nói: “Mới rồi ta có hỏi qua Tô đại công tử. Hắn nói sau khi hắn tỉnh lại đã quên rất nhiều chuyện lúc trước. Hắn thật sự không nhớ là ai đã đả thương hắn. Hắn còn nói là có thể đã say rượu ngã nên bị thương nhưng từ tình huống vết thương khả năng này hoàn toàn bị loại trừ. Tô lão gia hôm đó lệnh lang có bị say rượu không?”
Tô lão gia vuốt ria mép, cau mày suy nghĩ: “Lão hủ nhớ rõ, hôm khuyển tử bị thương không có uống rượu, trên người cũng không có mùi rượu, nó cũng không có nói là bị ngã nên bị thương. Sáng sớm hôm đó nó có việc đi ra ngoài mãi tới lúc trời tối đen mới quay về. Ngay khi về tới nhà nó đã ôm bụng bảo là bị đau bụng. Lão hủ có hỏi hắn đã xảy ra chuyện gì nó cũng không nói”.
“Vậy thì thật kỳ quái” Lưu Huyện uý gãi gãi, nhìn Ngô tri châu nói: “Tri châu đại nhân ngài xem chuyện này…”.
Ngô tri châu khẽ hắng giọng rồi ông ta nghiêm mặt nói: “Vụ án này đích thân Ngự y đại nhân giao cho chúng ta, phải lập tức lập án điều tra, tìm ra công đạo cho Ngự y đại nhân. Lưu Huyện uý, vụ án này đích thân ngươi phụ trách điều tra, nhất định phải bắt được hung phạm đả thương Tô đại công tử về quy án. Hạn trong năm ngày phải phá án”.
Lưu Huyện uý vội vàng khom người bái tạ nhận lệnh.
Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy Huyện uý đại nhân hãy mau đi điều tra án. Việc điều tra phá án cũng cấp bách như trị bệnh cho người bệnh, phải tranh thủ từng phút, mặt khác đại nhân hãy nhớ tăng cường bảo vệ an toàn cho Tô đại thiếu gia. Nếu hung thủ muốn gây bất lợi cho Tô đại thiếu gia biết Tô đại thiếu gia vẫn còn sống, nhất định khi đó hắn sẽ có mưu đồ khác”.
Lưu Huyện uý thoáng rùng mình, hắn khom người nói: “Đa tạ Ngự y đại nhân đã chỉ bảo. Bọn tiểu nhân sẽ bố trí người chừo hung thủ sa vào bẫy”.
Sau khi Lưu Huỵên uý vội vã rời đi, Tô lão gia vội đứng dậy khom người nói: “Đa tạ Ngự y đại nhân chiếu cố cho khuyển tử. Lão hủ vô cùng cảm kích”.
Đỗ Văn Hạo nói mấy cây khách sao rồi hắn nói tiếp: “Những người bệnh khó xử lý ở đâu? Việc này không nên chậm trễ, bắt đầu hội chẩn thôi. Những đại phu danh tiếng ở trong châu đều phải mời tới để cùng nhau hội chẩn, luận bàn y thuật”.
Ngô tri châu vội vàng khom người nói: “Các đại phu cũng đã tới. Bọn họ đang ở tiền đường tham quan, học tập cao đồ của đại nhân là Tiền Thái y chẩn bệnh. Những người bệnh cũng đang ở trong phòng bên cạnh, hạ quan sẽ phái người đi gọi các đại phu tới”.
“Vậy rất tốt! Trước hết ta sẽ sang đó xem sao”.
Tô lão gia vội vàng nói: “Ngự y đại nhân, mấy lễ vật này lão hủ cho người mang hộ đại nhân lên lầu giao cho tôn phu nhân có được không?”
“Ừ, vậy làm phiền Tô lão gia”.
Anh Tử dìu Đỗ Văn Hạo đi sang căn phòng bên cạnh.
Phòng bên này là một căn phòng đôi biến thành phòng bệnh. Có hai người bệnh đang nằm trên giường. Người nhà của người bệnh đang đứng, ngồi lo lắng xung quanh giường bệnh. Sắc mặt ai nấy cũng đều tỏ ra vui mừng khi thấy Đỗ Văn Hạo tiến vào trong phòng. Những người ở đây cũng không biết mặt Đỗ Văn Hạo. Mọi người chỉ nghe Ngự y tới từ kinh thành là một người trẻ tuổi liền phỏng đoán chính là người này nên ai nấy đều vội vàng đứng lên, có mấy người chưa nói gì đã quỳ xuống dập đầu khóc, cầu khẩn Đỗ Văn Hạo cứu mạng.
Đỗ Văn Hạo vội vàng mời bọn họ đứng lên. Ngô tri châu nói: “Lần này Ngự y đại nhân tới đây chính là muốn chữa bệnh cho người bệnh. Các ngươi không nên ở đây làm ảnh hưởng tới việc chữa trị của Ngự y đại nhân. Mỗi người bệnh chỉ để lại hai người nhà quen thuộc với tình trạng của người bệnh còn những người khác hãy rời khỏi đây”.
Tri châu đại lão gia đã nói thế còn ai dám không nghe lời. Sau một hồi bàn bạc chỉ để lại mấy người ở lại chăm nom cho người bệnh còn tất cả ra ngoài sân đợi.
Lúc này Tiền Bất Thu, Diêm Diệu Thủ và cả Tạ đại phu cùng mới một nhóm người đi vào phòng bệnh. Tất cả khom người thi lễ với Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo bảo mọi người không nên khách khí rồi hắn mỉm cười nói với Tiền Bất Thu: “Bất Thu, đã khổ cực rồi”.
Tiền Bất Thu vội vàng cúi người hành lễ nói: “Không dám. Đây là bổn phận của đệ tử”.
Đỗ Văn Hạo gật đầu. Hắn mất máu quá nhiều, mới đi mấy bước đã thở hổn hển, tim đập loạn, trước mắt thoáng tối đen. Anh Tử cũng lập tức nhận ra phản ứng bất thường của Đỗ Văn Hạo, nàng vội vàng dìu hắn đi tới ngồi trên một cái ghế cạnh giường một người bệnh. Nàng khẽ hỏi hắn: “Thiếu gia, cảm thấy thế nào? Có cần phải quay về nghỉ ngơi một lát đã không?”
Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn gương mặt xinh xắn tràn ngập sự ân cần của Anh Tử, cười nói: “Ta không việc gì, có thể tiếp tục được”.
Đỗ Văn Hạo nhìn người bệnh đang nằm nghiêng trên giường. Đó là một nữ nhân hơn hai mươi tuổi, sắc mặt tái nhợt, hơi thở dốc, khi thở có khi phải há mồm, rụt cổ có vẻ rất khổ cực. Bên cạnh vị cô nương đó là một cặp vợ chồng trung niên với ánh mắt chờ mong đang nhìn Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo hỏi cô nương đó: “Ngươi có chỗ nào không khoẻ?”
Nam tử trung niên vội vàng trả lời thay: “Hen suyễn. Khi mới được mấy tuổi đã mắc bệnh, khi lớn lên thì có đỡ hơn nhưng mấy năm gần đây bệnh thở lại trở nên ngày càng nặng thêm, chỉ có thể nằm tĩnh lặng một chỗ, chỉ cần khẽ cử động một lát là sẽ thở dốc, đôi khi ngay cả thở cũng không được, đã mấy lần bất tỉnh nhân sự. Đại nhân, van cầu ngài hãy cứu khuê nữ của tiểu nhân”.
Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Yên tâm đi thế nhưng không cần các ngươi trả lời thay, hãy để chính con gái các ngươi trả lời. Cô nương, ngoại trừ thở dốc ra còn chỗ nào không thoải mái?”
Nam tử trung niên vội vàng nói với con gái của mình: “Con gái, Ngự y đại nhân hỏi con, con hãy mau trả lời đi”.
Cô nương đó thở hổn hển mấy cái rồi nói vẻ yếu ớt, gần như là thì thào: “Chính là hởi thở dốc. Trước kia còn bị lạnh giá ở sau lưng nhưng từ khi Cảnh đại phu cho dùng thuốc thì ở sau lưng không còn thấy lạnh nữa nhưng hơi thở thì vẫn như thế, không đỡ”.
Đỗ Văn Hạo ồ một tiếng rồi hỏi: “Vào mùa hè lưng có phát lạnh không?”
“Dạ,một năm bốn mùa đêu như vậy. Vùng bị lạnh to bằng bàn tay”.
“Có ho khan, có hay khạc đờm không?”
Cô nương đó lắc đầu nói: “Không ho khan, cũng không có đờm”.
Đỗ Văn Hạo lại hỏi về ăn uống, giấc ngủ cùng với kinh nguyệt. Cô nương đó nói ngoại trừ giấc ngủ do bệnh thở nên không tốt lắm còn mọi thứ vẫn bình thường. Bệnh sử của cô nương đó cũng không có gì đặc biệt. Đỗ Văn Hạo tiếp tục chẩn mạch, xem lưỡi cho cô nương đó, hắn nhận ra lưỡi béo, đài lưỡi trắng, trơn nhẵn, mạch nhỏ, yếu.
Đỗ Văn Hạo quay đầu hỏi các đại phu: “Vị cô nương này là người bệnh của vị đại phu nào?”
Một lão giả gầy còm vội vàng bước ra, ông ta khom người thi lễ nói: “Hồi bẩm Ngự y đại nhân, cô nương này là bệnh nhân của lão hủ. Lão hủ họ Cảnh”.
“Ồ, Cảnh đại phu, ông chẩn đoán bệnh của cô nương này thế nào?’
Cảnh đại phu chắp tay nói: “Lão hủ chẩn đoán cô nương này là mắc chứng Tâm lưu ẩm*. Lão hủ đã dùng Linh Quế Truật Cam thang* làm chủ. Hoạch Đáp bốn tiền, Quế Chi bốn tiền, Bạch Thuật bốn tiền, Viêm Cam Thảo ba tiền. Sau khi uống thuốc. Sau lưng không còn thấy lạnh nữa nhưng hơi thở dốc vẫn như cũ. Lão hủ trăm mối không lời giải đáp nên mới tới cầu Ngự y đại nhân chỉ điểm sai lầm của lão hủ”.
Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn Tiền Bất Thu nói: “Bất Thu, lúc trước ngươi chẩn đoán như thế nào?”
* ẨM CHỨNG
Đại Cương:
Ẩm chứng là loại tật bệnh lượng thủy dịch trong cơ thể tăng cao chủ yếu ứ đọng ở một bộ phận nào đó không chuyển hóa được.
Chứng này có tên là ‘Tích Ẩm’ ghi trong sách Nội Kinh; Sách ‘Kim Quĩ Yếu Lược’ gọi là ‘Đàm Ẩm’. Tuy nhiên, dựa vào vị trí thủy ẩm tích chứa khác nhau, trong nghĩa rộng của bệnh danh Đàm ẩm, chia làm bốn loại: Loại ẩm tà lưu đọng ở dưới sườn gọi là Huyền ẩm; Ẩm tà tràn ra tay chân gọi là Dật ẩm; Ẩm tà phạm vào vùng ngực và Phế, gọi là Chi ẩm. Ngoài ra, còn có các tên Vi ẩm, Lưu ẩm, Phục ẩm v.v … cũng đều vẫn thuộc bốn loại ẩm nói trên
Trong lâm sàng, các loại Viêm Khí Quản Mạn Tính, Hen Suyễn, Tràn Dịch Màng Phổi, Rối Loạn Tiêu Hóa, Tắc Ruột v.v… thuộc Y học hiện đại, ở giai đoạn nào đó, có thể đối chiếu với ẩm chứng để biện chứng luận trị.
Nguyên Nhân
Có thể do nội nhân và ngoại nhân.
Nội nhân do dương khí bất túc, tân dịch vận hóa vô lực gây nên.
Ngoại nhân do do cảm nhiễm hàn thấp lâu ngày hoặc tổn thương ăn uống, khiến dương khí bị uất không vận hóa được gây nên.
Trong quá trình phát bệnh, hai loại này thường ảnh hưởng lẫn nhau.
1) Ngoại cảm hàn thấp: Khí hậu ẩm lạnh, hoặc lội nước dầm mưa, thủy thấp từ bên ngoài thấm vào, phần dương bảo vệ bên ngoài bị thương trước tiên, dần dần từ biểu vào lý, dương khí của nội tạng bị thấp tà làm khốn đốn đến không được thoải mái khiến cho thủy thấp ứ đọng mà thành bệnh. Sách ‘Tố Vấn’ viết: “Thấp tà thắng thì người ta bị ẩm tích lại mà thành chứng tâm thống”.. đó là chỉ trường hợp này.
2) Bị tồn thương do ăn uống – như uống nước lạnh hoặc ăn nhiều thứ sống lạnh, nóng và lạnh làm tổn thương nhau, dương khí ở trung tiêu bị uất kết, Tỳ không vận hóa được đọng lại thành chứng ẩm, như sách Kim Quỹ Yếu Lược viết: “Uống nước nhiều, ắt sẽ bị khó thở (suyễn), và ăn ít uống nhiều, nước đọng lại ở dưới Tâm. … Nói lên ăn uống không điều độ, hoặc uống nước nhiều sẽ đọng lại thành chứng ẩm.
3) Dương khí suy yếu: Thủy dịch của cơ thể phải nhờ dương khí mới biến hóa được. Người bị ốm lâu thể lực yếu hoặc vì tuổi cao khí yếu, dương khí Tỳ Thận bất túc, thủy dịch khó chuyển hóa, bị ứ đọng lại thành chứng ẩm.
Sự trao đổi thủy dịch bình thường là do quá trình khí hóa thống nhất của ba tạng Tỳ Phế Thận hợp tác điều hòa với nhau. Trong đó Phế có tác dụng làm cho thủy dịch lưu thông xuống dưới, Tỳ có công năng hấp thụ và chuyển vận đi lên, Thận có công năng
phân biệt trong đục, chưng cất thủy dịch và làm nhiệm vụ mở đóng. Dương khí của ba tạng này đầy đủ, phối hợp với nhau, mới có thể hoàn thành sự hấp thụ, vận hành và bài tiết thủy dịch.
Trong ba tạng, dương khí ở tạng Thận và rất quan trọng. Trong trường hợp bệnh lý, Phế Tỳ Thận ảnh hưởng lẫn nhau, như ngoại cảm hàn thấp, đầu tiên phạm Phế rồi mới đến Tỳ, Thận tổn thương. Bị tổn thương vì ăn uống thì Tỳ Vị bị hại, bệnh kéo dài sẽ lan tới Phế Thận. Chứng ẩm do dương hư là phát từ bên trong, tuy chủ yếu là do Tỳ Thận, nhưng cũng có thể đi nghịch lên ảnh hưởng đến Phế, vì vậy trên lâm sàng có những loại chứng khác nhau.
Biện Chứng
Trước tiên cần phân biệt ẩm tà ứ đọng ở vị trí nào mới có thể có biện pháp điều trị.
Ẩm tà lưu ở Vị Trường thì vùng trung quản có tiếng nước óc ách, uống nước vào thì mửa, hoặc trong ruột có tiếng sôi réo.
Ẩm tà đọng ở Phế thường có chứng ho suyễn, khạc đờm có nhiều bọt trắng.
Ẩm tà ở dưới hông sườn thì hông sườn trướng đau, khi ho thì đau tăng.
Ẩm tà ứ đọng ở Bàng quang thì bụng dưới căng cứng hoặc chướng đầy, tiểu tiện không thông…
Đồng thời, còn căn cứ vào các đặc điểm của bệnh như dương hư âm thịnh, hoặc bản hư tiêu thực, linh hoạt nắm vững hư hay thực, hoãn hay cấp, khi biện chứng mới xác đáng.
Về phương diện điều trị, sách ‘Kim Quĩ Yếu Lược’ có nêu ra các phương pháp: tuyên tán, lợi thủy, trục thủy và ôn hóa khác nhau, và đề ra nguyên tắc “Bệnh đàm ẩm, nên dùng thuốc ấm để hòa”. Đó là do ẩm là dương tà, gặp lạnh thì tụ, được ấm thì lưu thông, dù dùng thuốc tuyên tán, lợi thủy hay trục ẩm đều phải chú ý đến việc ôn hóa. Nếu nghiêng về dương hư, phải lấy kiện Tỳ ôn Thận làm chủ yếu, để củng cố gốc.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
Ẩm Tà Hại Phế
Chứng: Ho suyễn, ngực đầy, thậm chí không nằm được, đờm nhiều, gặp thời tiết lạnh thì bệnh tăng. Thoạt tiên có thể có biểu chứng: sốt, sợ lạnh, cơ thể đau, dần dà vùng mặt bị phù thũng nhẹ, lưỡi nhạt, mạch Huyền Khẩn.
Biện Chứng: Do ẩm tà tích ở Phế, Phế khí không tuyên giáng, làm cho ho và ngực đầy, không nằm được, đờm nhiều. Thủy theo khí đưa lên làm cho phù thũng vùng mặt. Rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền Khẩn là dấu hiệu hàn ẩm thịnh ở trong.
Điều trị: Ôn phế, hóa ẩm, bình suyễn, chỉ khái.
Chủ yếu dùng Ôn Phế Hóa Ẩm Thang (tức Tiểu Thanh Long Thang) gia giảm. Bài này vừa ôn Phế hóa ẩm, vừa biểu tán phong hàn, thích hợp với chứng do Hàn ở bên ngoài dẫn đến nội ẩm.
Nếu ẩm tà lâu ngày uất lại hóa nhiệt, có thêm chứng dưới Tâm cứng đầy, sắc mặt sạm, phiền khát mà uống nước không nhiều, rêu lưỡi vàng hoặc trắng vàng lẫn lộn. Mạch Trầm Khẩn, nên cần phải hành thủy, tán kết, thanh nhiệt, bổ hư, dùng Mộc Phòng Kỷ Thang gia giảm. Trong bài dùng cả hai vị Phòng Kỷ và Quế chi vừa hành thủy vừa làm tan khí kết, có thể tiêu được bỉ rắn ở dưới Tâm; Thạch cao để thanh uất nhiệt, Nhân sâm để bổ hư phù chính.
Sau khi uống thuốc, nếu dưới Tâm vẫn đầy, bỏ Thạch cao thêm Bạch linh, Mang tiêu để thông thủy, tán kết.
Ẩm Ứ Đọng Ở Ngực Sườn.
Chứng: Ngực sườn chướng đau, khi ho thì đau tăng, xoay mình và hít thở cũng đau, đôi khi hơi thở ngắn, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền.
Biện chứng: Ngực sườn là con đường thăng giáng của khí cơ, nếu ẩm ứ đọng ở ngực sườn, cản trở lưu thông đường thở gây nên đau ngực và khó xoay chuyển. Thủy ẩm dồn ngược lên Phế do đó ho và ngắn hơi, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền là triệu chứng thủy ẩm ứ đọng trong cơ thể.
Điều trị: Công trục thủy ẩm.
Dùng bài Thập Táo Thang gia giảm. Phương này trục ẩm hạ mạnh, chỉ được dùng khi ẩm tà ủng thực mà chính khí chưa suy. Trong bài có Cam toại, Nguyên hoa, Đại kích, trục thủy mạnh, liều lượng nên dùng vừa phải. Nếu bệnh ở loại chính hư tà thực, có thể dùng Đình Lịch Đại Táo Tả Phế Thang hợp với Tam Tử Thang gia giảm.
Ẩm Ứ đọng ở Trường Vị
Chứng: Hình thể gầy ốm, ăn uống kém, trong dạ dầy có tiếng nước óc ách hoặc sôi, tiêu lỏng, sợ lạnh, nhất là vùng lưng, đôi khi chóng mặt, hoa mắt, hồi hộp, ngắn hơi, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt.
– Biện chứng: Tỳ Vị kiện vận mất chức năng cho nên ăn uống sút kém, thủy cốc không hóa ra chất tinh vi để nuôi dưỡng cơ thể cho nên gầy còm. Thủy ẩm đọng ở trong dạ dày hoặc chảy xuống ruột, không chuyển hóa được, uống vào dễ mửa hoặc bụng óc ách, sôi, tiêu lỏng. Thanh dương bị ẩm tà ngăn trở không phát huy được, cho nên sợ lạnh, chóng mặt, hoa mắt. Thủy ẩm tràn lên Tâm Phế, làm cho hồi hộp, ngắn hơi; Rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt là hiện tượng hàn ẩm ứ đọng.
Điều trị: Ôn dương, lợi thủy.
Dùng bài Linh Quế Truật Cam Thang để lợi ẩm và ôn Tỳ dương. Trong bài có Phục linh vị đạm, có tác dụng thấm dẫn nước chảy xuống dưới; Quế, Cam thảo để ôn dương hóa khí; Bạch truật kiện Tỳ trừ thấp. Nếu nôn mửa, chóng mặt, thêm Bán hạ, Sinh khương đế hòa Vị, giáng nghịch. Dương hư nặng, có thể dùng thêm Can khương, Nhục quế để lấy tân ôn trợ dương, hiệu quả càng nhanh.
Bệnh tình khá nặng có triệu chứng vùng bụng chướng đầy, sôi bụng, táo bón, miệng khô, lưỡi ráo, rêu lưỡi trắng nhớt hoặc vàng tro, mạch Trầm Huyền, đó là ẩm tà đọng ở Trường Vị lâu ngày hóa nhiệt, điều trị theo phép lợi thủy, trục ẩm, dùng bài Kỷ Tiêu
Lịch Hoàng Hoàn gồm những vị cay đắng, có tác dụng tuyên tiết để tiêu thủy. Có đằng trước và đằng sau khiến thủy ẩm bài tiết theo đường đại, tiểu tiện.
Ẩm Tà Ứ Đọng Ở Bàng Quang
Chứng: Bụng dưới chướng đầy, tiểu tiện không thông, chóng mặt, hoa mắt, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt.
Biện chứng: Ẩm tà ứ đọng ở Bàng quang, khí hóa không lợi cho nên bụng dưới chướng đầy mà tiểu ít. Nước tràn lên trên thì gây nên chóng mặt, hoa mắt. Rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt đều là chứng hậu của thủy ẩm ứ đọng.
Điều trị: Hóa khí, hành thủy.
Phương dược 1: Dùng bài Ngũ Linh Tán. Trong bài có Quế chi, Bạch truật để ôn dương hóa khí; Phục linh, Trư linh, Trạch tả để đưa nước chảy xuống, đồng thời có công hóa khí hành thủy.
Nếu bụng dưới co cứng cảm giác lạnh, suyễn, hơi thở ngắn, ớn lạnh, chân tay lạnh, lưỡi bệu mà nhuận, mạch Trầm Tế là chứng hậu của Thận dương hư suy, nên tăng cường sức ôn Thận, hóa ẩm. Dùng bài Ngũ Linh Tán có thể thêm Phụ tử, Nhục quế. Nếu bệnh nhẹ có thể dùng bài Thận Khí Hoàn điều trị tiếp tục.
Chứng Dật Ẩm ghi trong sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ thì chứng trạng chủ yếu là đau nhức nặng nề toàn thân. Thậm chí chân tay phù thũng, căn cứ vào đó, có thể xếp Dật ẩm thuộc phạm vi thủy thũng. Sách ‘Y Tông Kim Giám’ cũng ghi: “Dật ẩm tức ngày nay gọi là phong thủy, bì thủy”, đó là lý do không giới thiệu Dật ẩm trong ẩm chứng ở đây nhưng lại có ảnh hưởng đến nhau.
Tóm lại, ẩm chứng thuộc loại dương hư âm thịnh, ‘bản’ hư mà “tiêu’ thực. ‘Bản’ thuộc Tỳ Thận dương hư không vận hóa được chất tinh vi, ‘Tiêu’ là thủy ẩm ứ đọng. Còn kiện Tỳ ôn Thận là phép chính trị, đợi khi thủy ẩm tạm ổn, rêu lưỡi hóa dần, mạch chuyển Hư Nhược, vẫn cần phải ôn bổ Tỳ Thận, phù chính đã làm bền gốc để củng cố về sau: Đồng thời chú ý phòng ngừa ngoại tà xâm phạm, hạn chế rượu, thuốc và thức có mỡ, kết quả điều trị càng được nâng cao.
* LINH QUẾ TRUẬT CAM THANG
( Thương hàn luận)
Thành phần:
Bạch linh 12 – 16g
Quế chi 8 – 10g
Bạch truật 12g
Chích thảo 4 – 6g
Cách dùng: sắc nước uống chia 3 lần trong ngày.
Tác dụng: Kiện tỳ thẩm thấp, ôn hóa đàm ẩm.
Giải thích bài thuốc:
• Bạch linh kiện tỳ thẩm thấp lợi thủy là chủ dược.
• Quế chi thông dương ôn hóa thủy ẩm.
• Bạch truật kiện tỳ táo thấp.
• Cam thảo bổ tỳ ích khí điều hòa các vị thuốc.
Ứng dụng lâm sàng: Bài thuốc chủ trị chứng đàm ẩm, có triệu chứng lâm sàng: ngực sườn đau, chóng mặt hồi hộp, hoặc ho khó thở, rêu lưỡi trắng, mạch hoạt huyền, hoạt, hoặc trầm khẩn.
1. Trường hợp nôn ra đàm nước gia Khương Bán hạ để ôn hóa hàn đàm, giáng nghịch chỉ ẩu; đờm nhiều gia Trần bì lý khí hóa đàm; nếu tỳ hư gia Đảng sâm ích khí bổ tỳ.
2. Trường hợp thấp tả do tỳ dương hư kết hợp với Bình vị tán để tán thấp chỉ tả.
[/QUOTE]