Mộ Dung Thùy ngạc nhiên hỏi: “Lưu Lao Chi và Tư Mã Đạo Tử lại chịu bỏ qua cho hắn ư? Hắn mà quay về thì khác gì đi tìm cái chết?”
Kỷ Thiên Thiên nhẹ nhàng nói: “Hoặc có thể gã thực sự là chân mệnh thiên tử! Ai có thể rút ra kết luận được đây?”
Mộ Dung Thùy lộ ra thần sắc ngưng trọng, gật đầu nói: “Câu nói này của Thiên Thiên, đã nhắm trúng vào điểm quan trọng nhất của toàn bộ vấn đề. Nếu chỉ dùng trí óc, không dùng cảm tình để phân tích, Lưu Dụ mà biến thành cái đích cho trăm tên ngắm vào, khẳng định khó thoát khỏi độc thủ của địch nhân. Thế nhưng, nếu hắn thực sự có thể chèo chống qua được, và bảo toàn cái mạng nhỏ của hắn, như vậy thì, ngay cả những kẻ không tin hắn chính là chân mệnh thiên tử nhất, cũng sẽ dao động lòng tin. Nếu vậy, hắn sẽ trở thành người có sức hiệu triệu nhất tại Nam phương, thậm chí có thể hấp dẫn cả thủ hạ của địch nhân về đầu hàng theo hắn.”
Kỷ Thiên Thiên hiểu rõ, vì sao Mộ Dung Thùy đặc biệt quan tâm đến Lưu Dụ. Sự thực thì, quần hùng Nam Bắc hiện giờ, chính đang tiến hành một trường thi đua ngấm ngầm không tuyên bố, âm thầm bí mật so sánh lực lượng, để xem ai có thể thống nhất Bắc phương hoặc Nam phương trước tiên. Phương đầu tiên thống nhất, sẽ có thể lợi dụng thời cơ phương kia đang chia rẽ xung đột, mà thừa thế chinh phạt, nhằm thống nhất thiên hạ.
Mộ Dung Thùy vì tình huống bản thân mà sốt ruột lo lắng, không hy vọng trước khi dẹp yên được quần hùng phương Bắc, Nam phương lại quy về một mối sớm trước một bước. Vì vậy, việc Lưu Dụ nổi lên quá nhanh, đã tạo thành uy hiếp đối với sự nghiệp vĩ đại của y.
Kỷ Thiên Thiên nghĩ, nếu như Mộ Dung Thùy có thể nhìn thấu được ý nghĩ của bản thân nàng đối với y, liệu y sẽ có cảm nhận như thế nào? Có phát sinh lòng cảnh giác đối với mình hay không? Nàng hỏi: “Hoàng thượng còn chưa nói rõ với ta, trận chiến này đã bại như thế nào?”
Mộ Dung Thùy ngẩng đầu nhìn trời đêm, thở dài một tiếng, đáp: “Có phải ngoại trừ chuyện của Biên Hoang tập ra, Thiên Thiên không còn có hứng thú với bất kỳ chuyện nào khác có phải không?”
Kỷ Thiên Thiên nhún vai đáp: “Ta từ nhỏ đã là một người có lòng hiếu kỳ, hứng thú cũng có thể có rất nhiều! Chỉ có điều, chuyện ta quan tâm nhất hiện giờ chính là Biên Hoang tập, đây là do một tay hoàng thượng tạo thành, hoàng thượng không phải là muốn ta đem nguyên nhân trong đó một lời nói thẳng ra chứ!”
Mộ Dung Thùy nhất thời nói không nên lời, càng không biết trả lời nàng như thế nào, đủ mọi cảm nhận, dâng vọt lên đầu.
Tạ Đạo Uẩn hồi phục lại thần trí, mở to mắt để nhìn, thấy được khuôn mặt đã lưu lại bao vết sẹo năm tháng chịu nhiều gian nan khổ cực của Tống Bi Phong, nhưng lại cảm giác không được thân thể bản thân nàng có bất kỳ đau đớn khổ sở nào.
Từ hai mắt Tống Bi Phong ánh ra những tia nhìn rớm lệ, nàng hiểu được bản thân đã thụ nội thương nghiêm trọng, chỉ có điều, nàng không có chút nào khiếp sợ, sinh mệnh cũng không là điều đáng để nàng lưu luyến nữa.
Nàng dịu dàng nói: “Ta còn cho rằng đây là cảnh trong giấc mộng, nhưng ta quả thực đã mơ đến cầu Chu Tước gần sông Tần Hoài, cùng hẻm Ô Y cạnh cầu Chu Tước, cuộc sống ấy tựa như chuyện cũ luân hồi từ kiếp trước, phát sinh trong quá khứ trước đây rất lâu, lâu lắm rồi. Vương, Tạ hai nhà chúng ta đã cùng chung sống trong hẻm qua nhiều thời đại dài dằng dặc, phong lưu hào phóng, cuộc sống xa hoa, cũng đồng thời đối mặt với kiếp nạn đáng sợ trước giờ chưa từng có. Đây chính là số mệnh đã an bài của chúng ta, không một ai có thể thay đổi được.”
Tống Bi Phong đau buồn than: “Ta thực không hiểu nổi, Tôn Ân vì sao lại hạ độc thủ đối với ngươi? Làm như vậy, đối với gã chỉ có hại mà chẳng có ích lợi gì.”
Tạ Đạo Uẩn bình tĩnh nói: “Tống thúc hãy sớm rời khỏi Tạ gia đi, đây sẽ là lần cuối cùng thúc nhúng tay vào chuyện của Tạ gia. Đi giúp Lưu Dụ đánh thiên hạ! An công tuyệt đối không nhìn nhầm người đâu.” Bạn đang xem tại TruyệnFULL.vn – www.TruyệnFULL.vn
Tống Bi Phong bi thương tột độ, năm đó khi Tạ An bệnh mà qua đời, ông cũng không mất tự chủ đến thế này. Phong lưu của Tạ gia, quả thực đã đi đến cùng đường mạt lộ, nếu lại đến lượt Tạ Đạo Uẩn quy thiên, thì cũng mang đi theo nàng vết tích mờ nhạt cuối cùng còn sót lại của ánh hào quang nơi thế gia hiển hách nhất hẻm Ô Y này. Thời đại của Tạ An coi như đã kết thúc
Tạ Đạo Uẩn nói: “Ta nhìn thấy Vương lang và Vinh Nhân! Ta thực sự không thể cầm cự nổi nữa rồi. Tống thúc gắng bảo trọng, ta đã từng có qua những năm tháng huy hoàng nhất, thế cũng là quá đủ rồi. Tất cả đều không còn quan trọng gì nữa.”
Hai mắt của Tống Bi Phong hiện ra thần sắc kiên quyết, ngón tay điểm xuống như mưa, điểm cả các yếu huyệt nằm ở trước ngực nàng, đây chính là phương pháp bắt chước cách mà năm đó Yến Phi dùng để cứu chữa cho lão.
Kỷ Thiên Thiên quay trở vào trong trướng, Tiểu Thi đang nóng lòng như thiêu như đốt chờ chờ đợi đợi, vội vàng chạy lại hầu hạ nàng, nói: “Em thực sự sợ y không khống chế được bản thân, không chịu thả tiểu tỷ quay trở về, hoặc là tìm cách chuốc say tiểu tỷ.”
Kỷ Thiên Thiên mỉm cười: “Mộ Dung Thùy không phải hạng tiểu nhân bỉ ổi này đâu. Cha nuôi đã nói qua, phàm là người có thể trở thành cao thủ đệ nhất lưu, đều có năng lực chế ngự thất tình lục dục của bản thân, vậy mới có thể không bị chuyện tình cảm ảnh hưởng, mà trở nên xuất sắc hơn người trên phương diện võ nghệ. Huyền Soái là một người loại này, có rất nhiều điểm khác biệt so với đám con cháu thế gia vọng tộc Kiến Khang. Ngài chẳng những không bao giờ quá đà trong quan hệ nam nữ, mà còn không có chút hứng thú nào đối với những cái gọi là Ngũ Thạch Tán, Hàn Thực Tán ** gì gì đó mà đám Kiến Khang danh sĩ vẫn đổ xô theo như vịt. Tại phương diện này cả cha nuôi cũng phải hổ thẹn không bằng được.”
Tiểu Thi vẫn lo lắng nói: “Nhưng Mộ Dung Thùy là Hồ nhân mà!”
Kỷ Thiên Thiên kéo tay Tiểu Thi ngồi xuống tấm thảm giạ, vui vẻ nói: “Hồ nhân ở Bắc phương hiện giờ, đã không còn sự phân biệt rõ ràng với người Hán chúng ta, đặc biệt là tầng lớp lãnh tụ Hồ nhân, dưới nỗ lực đem Hán hóa các Hồ tộc Bắc phương của Phù Kiên, Hồ nhân đều nói được Hán ngữ, có những người còn đọc cả sách thánh hiền. Giống như Mộ Dung Thùy, trừ lúc ở trên chiến trường, là vẫn duy trì tác phong dũng mãnh, gan dạ, tàn nhẫn, háo thắng của Hồ nhân, còn lúc bình thường nhìn thế nào cũng không nhận ra được y là người dị tộc.”
Tiểu Thi cúi thấp đầu nói: “Bộ dạng của y thật đáng sợ! Giống như không một ai có thể là đối thủ của y vậy.”
Kỷ Thiên Thiên cười nói: “Chớ để bị khí thế khuất phục, hươu chết về tay ai, còn phải xem vào sự thực trên chiến trường. Trong thiên hạ tuyệt không hề có người không thể bị đánh đổ. Báo cho người biết một tin tức cực kỳ tốt lành, Hoang nhân chúng ta trong chiến dịch phản công Biên Hoang tập lần thứ hai, đã đạt được thắng lợi triệt để, đem liên quân Tiên Ti và Khương tộc có binh lực nhiều hơn gấp ba lần trục xuất ra khỏi Biên Hoang tập, thắng một trận vô cùng đẹp mắt. Yến lang lại càng đại triển thần uy, giữa mưa to gió lớn dũng cảm tử thủ Cổ Chung lâu, làm lung lay sức phòng thủ của địch nhân từ tận trung tâm của Biên Hoang tập. Trận chiến này đã làm cả thiên hạ kinh hoàng, hãi sợ, khiến danh tiếng của Hoang nhân chấn động khắp nơi, thử xem sau này còn có kẻ nào dám coi thường Hoang nhân chúng ta.”
Tiểu Thi hoan hỉ nói: “Hoang nhân thực là có bản lĩnh.”
Kỷ Thiên Thiên hạ giọng nói khẽ: “Mất đi Biên Hoang tập, đã làm suy yếu đi rất nhiều lòng tin vốn kiên định không dời của Mộ Dung Thùy, ta chưa từng thấy qua dáng vẻ mà y lộ ra tối nay, mặc dù đang nói chuyện cùng ta, nhưng thỉnh thoảng lại không tập trung tư tưởng, có thể thấy y tâm sự trùng trùng. Vì vậy, chỉ cần thua thêm một trận nữa thôi, y sẽ đối mặt với nguy cơ sụp đổ lòng tin lớn nhất trong đời, không thể quay lại là Mộ Dung Thùy trước kia được nữa.”
Tiểu Thi nói: “Nhưng Hồ nhân rốt cục vẫn là Hồ nhân, em sợ y nổi điên lên sẽ làm hại đến tiểu thơ?”
Kỷ Thiên Thiên nói: “Vì vậy, chúng ta phải cẩn thận xử lý quan hệ với y, để y có thể duy trì tác phong quân tử. Xu hướng của thế cuộc hiện thời, đối với chúng ta cực kỳ có lợi. Ai coi thường Hoang nhân chúng ta khẳng định sẽ ăn phải quả đắng.”
Tống Bi Phong vài lần kiệt sức vì phải nỗ lực, thúc ngựa chạy chầm chậm, dắt theo một con ngựa khác đang chở Tạ Đạo Uẩn trên lưng, từ vùng rừng núi hoang vu chuyển sang đường lớn đi về phía Bắc.
Đưa nàng quay trở lại Tạ gia ở Kiến Khang, là chuyện duy nhất lão có thể làm lúc này.
Ba người mà lão tôn kính nhất ở Tạ gia, chính là Tạ An, Tạ Huyền và Tạ Đạo Uẩn. Đối với Tạ Đạo Uẩn ngoại trừ sự kính phục, trong lòng lão còn tràn đầy nỗi niềm thương tiếc bởi cuộc hôn nhân bất hạnh của nàng. Ông trời đối với nàng thật quá bất công bằng, đã ban cho nàng dung mạo mĩ miều, tài trí cùng tấm lòng thiện lương, nhưng lại không ban xuống cho nàng một cuộc sống hạnh phúc khoái lạc. Nàng không chỉ là người bị hại của cái gọi là hôn nhân môn đăng hộ đối trong tầng lớp thế gia đại tộc, mà còn là vật hy sinh chính trị.
Đến thời điểm này lão vẫn nghĩ không thông, vì sao Tôn Ân lại phải hạ độc thủ đối với nàng, rốt cục là vì cừu hận đối với Tạ An, hay là bởi nguyên nhân nào khác.
Nếu vì báo thù Tạ gia, vì sao Tôn Ân lại bỏ qua cho Tống Bi Phong lão? Lúc đó lão liều chết ngăn cản Tôn Ân, sau hơn ba mươi chiêu, lão đã nhụt hết nhuệ khí, chân khí lưu động khó khăn, bị Tôn Ân bức đến mức hạ phong.
Tôn Ân chỉ cần tiếp tục kiên trì, nhất định có thể lấy mạng của lão, nhưng Tôn Ân chỉ một chưởng đánh lão loạng quạng ngã nhào xuống đất, sau đó dừng tay không đánh tiếp nữa, lưu lại một lời khiến người khó hiểu.
Lão đã nói: “Nếu như đổi lại ở một tình huống khác, ta tuyệt đối sẽ không hạ sát thủ với nàng ấy, đây là vận mệnh đã an bài. Mà thôi! Mang nàng ấy quay trở lại Kiến Khang mà an táng cho tốt vào! Trước khi lìa trần thế, nàng ấy sẽ không phải chịu bất kỳ thống khổ đau đớn nào nữa.”
Lão thực sự không hiểu nổi, vì lẽ gì mà Tôn Ân lại cho rằng đây là sự an bài của số mệnh? Võ công của Tôn Ân còn đáng sợ hơn so với trong truyền thuyết, quả là nhìn khắp thiên hạ, liệu còn có người nào đáng là đối thủ của lão nữa đây? Tống Bi Phong mặc dù tự phụ, nhưng cũng biết bản thân không có khả năng vì Tạ Đạo Uẩn mà báo mối thâm cừu này. Yến Phi liệu có thể chăng? Nghĩ đến đây, trong lòng chợt động, cuối cùng cũng đột nhiên nghĩ thông suốt hành vi khiến người khó hiểu của Tôn Ân.
Y chính là muốn dẫn dụ Yến Phi tới quyết một trận tử chiến. Yến Phi có quan hệ mật thiết cùng Tạ gia, sau khi Tạ An, Tạ Huyền mất đi, Tạ Đạo Uẩn đã trở thành nhân vật đại biểu cho Tạ gia, giả như người bị Tôn Ân giết là Tống Bi Phong lão hay Tạ Diễm, thì đấy chỉ là kết cục của những cừu hận chém giết lẫn nhau trên chiến trường, sẽ không thể tạo thành chấn động quá lớn, thế nhưng, đối tượng mà Tôn Ân hạ độc thủ lại là một Tạ Đạo Uẩn đứng ngoài vòng thế sự, đây rõ ràng là nhắm đến Yến Phi, chỉ cần Yến Phi vẫn còn lại một hơi thở, quyết sẽ không bỏ qua cho Tôn Ân.
Đây là cừu hận không thể có cách nào cởi bỏ được. Tôn Ân đã quyết chí đến cùng đối với việc trừ khử Yến Phi, chuyện này quan hệ đến thanh danh của Tôn Ân, cùng uy thế của Thiên Sư quân, may mà thuật hồi sinh của lão có thể miễn cưỡng bảo trì được tính mệnh của nàng, cũng chính là nhờ vào chân khí Yến Phi truyền cho lão để trị thương năm đó. Chỉ có điều Tạ Đạo Uẩn có thể cầm cự được bao lâu, ngay cả lão cũng không biết được.
Tôn Ân thật quá tàn nhẫn, bỉ ổi, vì thù hằn cá nhân, mà gây họa đến cho một người không hề có chút liên quan. Càng đáng giận hơn chính là Tư Mã Đạo Tử , cưỡng ép gia đình Vương Ngưng Chi từ lớn tới bé, phải tiến vào bãi lầy chiến tranh, chỉ vì muốn gài bẫy, giở thủ đoạn hại người. Ông trời rốt cục đang làm cái gì vậy, mà sao nơi nơi để cho kẻ ác hoành hành, khiến thế giới này chỉ có cường quyền không có chính nghĩa công bằng? Trong thoáng chốc, lão đã minh bạch tất cả hy vọng của bản thân đều gửi gắm trên thân một người, người ấy chính là người kế thừa do Tạ Huyền đích thân tuyển chọn, Lưu Dụ!
Tống Bi Phong ngầm hạ quyết tâm, bất kể sống chết cũng phải trợ giúp Lưu Dụ thành công, chỉ có thông qua Lưu Dụ, lão mới có thể coi như đã rửa sạch hết nỗi nhục nhã cho Tạ gia, báo thù Tư Mã hoàng triều, báo thù Tôn Ân. Sinh tử vinh nhục đã không còn quan trọng nữa rồi, chỉ có cách này lão mới có thể báo đáp Tạ An, biểu thị tấm lòng cảm động và nhớ nhung không quên của lão đối với vị thiên hạ đệ nhất danh sĩ này.
Chú thích:
*Giang Hà gồm sông Trường Giang và sông Hoàng Hà
** Hàn Thạch tán còn gọi là Ngũ Thạch tán, bắt nguồn từ thời nhà Tần (221BC – 206BC) phổ biến đến thời Ngụy Tấn (220AD – 439AD), sau triều Đường (618AD – 907AD) thì dần dần bỏ không dùng nữa. Ngũ Thạch Tán do năm vị thuốc từ đá hợp thành, gồm thạch nhũ, thạch anh tím – ametit, thạch anh trắng, lưu huỳnh tinh chất và xích thạch chi (bột đá đỏ). Sau khi dùng thân thể khô nóng, cần ăn món lạnh, uống rượu đun nóng, dùng để tẩy lạnh để phát tán dược lực, gọi là “Hành tán”. Ngũ Thạch Tán nguyên là thuốc được dùng những năm cuối thời Đông Hán để trị bệnh sốt rét. Nguyên liệu phần lớn là các phương thuốc có tính thạch và tính nóng, nên sau khi dùng toàn thân khô nóng không chịu nổi, phải dùng đồ ăn âm hàn để ức chế, vì vậy còn có biệt danh là “Hàn Thực Tán”. Hà Yến thượng thư đời Ngụy đã viết: “Dùng Ngũ Thạch Tán, không chỉ chữa được bệnh, mà còn làm thần trí minh mẫn”. Thường xuyên dùng, da sẽ trở nên trắng mịn. Nhưng Hàn Thạch Tán đến cùng vẫn là độc dược, dùng nhiều sẽ có tác dụng phụ “Hồn không giữ được yên tịnh, huyết không giữ được màu tươi thắm, tinh yếu ớt không rõ, mặt như gỗ khô, đến quỷ cũng phải lánh xa” – trích Tấn thư – Hoàng phủ mật truyền