Những cành hoa lê bị y lôi kéo bắt đầu ào ạt rụng xuống, trên vai y cũng vì thế mà xuất hiện vài cánh hoa, màu trắng muốt hòa vào sắc xanh nhìn cũng cực kỳ đẹp.
Sở Hà bắt đầu kể lại lai lịch của vị thần y kia: “Người này không có lòng tham giống như Vi Túc, trước đây là người hành y để cứu giúp dân chúng, xuất thân từ gia tộc quyền quý, trong nhà có ngàn mảnh ruộng màu mỡ, hồi trẻ từng đến thôn Quý Châu giúp đỡ vài người dân ở đó —”
Ninh Hoàn hơi trầm ngâm: “Bây giờ khác xa so với ngày xưa à?”
“Nghe nói sau khi phụ mẫu hắn chết, trong nhà xảy ra xung đột do tranh giành gia sản nên tính cách hắn đã thay đổi rất nhiều, không tiếp tục phí thời gian ở nơi thôn quê nữa mà bắt đầu kết thân với những vị quan to quyền quý.”
Sở Hà kể lại tất tật cho Ninh Hoàn hết hai khắc.
Trong lúc nghe hắn nói Ninh Hoàn vẫn luôn ngồi trên cây, cây lê này tuy không quá cao song cũng không phải dạng lùn tịt, người bình thường mà ngồi trên đó ít nhiều đều sẽ cảm thấy sợ hãi, nhất là còn ngồi trên cái cành cây mảnh khảnh như vậy. Nhưng từ đầu đến cuối mặt mũi Ninh Hoàn vẫn vô cảm, sau khi Sở Hà nói xong y mới leo thang xuống dưới đất.
Y cầm khăn vải lau lau tay: “Được, ta biết rồi.”
Sở Hà tha thiết hỏi: “Ngài có dặn dò gì không ạ?”
“Sẽ có việc cho ngươi làm, nhưng để chút nữa đi.” Ninh Hoàn đưa khăn cho nha hoàn đứng bên cạnh: “Phương Bắc thế nào rồi? Có tin gì mới không?”
Mặt mũi Sở Hà lập tức xuất hiện nét cười, hắn vui vẻ mở miệng: “Hôm qua tin tức mới đến kinh thành, Thái tử điện hạ của chúng ta thắng trận rồi ạ, ngài ấy diệt sạch toán quân do Hạ Thuật Tất cầm đầu đến không còn manh giáp. Hiện giờ ai ai trong kinh thành cũng đang bàn tán chuyện này đấy ạ.”
Thái tử là thân sinh nhi tử của Hoàng hậu, không cần biết rốt cục hắn là cốt nhục của tiên đế hay là Hoàng đế, thì hắn vẫn luôn là trữ quân danh chính ngôn thuận, sẽ chẳng ai có thể sửa được xuất thân ấy của hắn. Truyền thống của Đại Lạc triều xưa nay vẫn luôn là đích trưởng tử kế thừa gia nghiệp, điều lệ này đã tồn tại được mấy trăm năm qua, chưa một lần nào dao động, trừ phi Mộ Cẩm Ngọc phạm phải tội lớn tày trời hoặc là đã mất mạng, thì lúc đó ngôi vị Thái tử mới có thể rơi xuống đầu kẻ khác.
Hiện giờ Thái tử còn đang có quân công, hơn nữa còn là công lớn do đánh đuổi được Phong Đan khỏi Đại Lạc, sau đợt này Hoàng đế muốn lung lay địa vị Thái tử của hắn cũng rất khó.
“Thái tử điện hạ có bị thương không?”
“Lần này không bị thương ạ.” Sở Hà cực kỳ vui vẻ: “Hình như điện hạ chỉ bị thương trong lần mai phục quân viện binh của Phong Đan thôi, thuộc hạ được người khác kể lại như thế.”
Kỵ binh của Đại Lạc đã dò xét được nơi đóng quân của Phong Đan, bọn họ nhân lúc đêm khuya vắng lặng trộm hạ độc xuống nguồn nước của quân địch. Nọc độc chiết từ sâu bụng đỏ hòa loãng vào nước xong lại bị đun lên để nấu thức ăn thật ra đã không còn hiệu quả được như lúc đầu, chút độc tính ấy không đủ để tạo thành một đợt chết người cho đám quân lính cường tráng của Phong Đan, song vẫn đủ khiến bọn chúng tiêu chảy hàng loạt.
Quân y đi theo Mộ Cẩm Ngọc lên tiền tuyến không có hiểu biết nhiều về độc tính và thuốc giải của sâu bụng đỏ, nhưng người Phong Đan quanh năm sinh sống tại nơi đây thì lại biết rất rõ, song chúng chưa bao giờ nghĩ tới nọc độc của đám sâu này lại được tinh luyện thành nước độc có thể tan ra trong nước, cho nên chưa bao giờ suy xét đến tình huống này.
Sau khi quân địch trúng độc rồi đau bụng cả đám, Mộ Cẩm Ngọc lập tức dẫn dắt kỵ binh đánh thẳng vào doanh trại của chúng, hầu hết quân lính Phong Đan đều không kịp cầm lấy vũ khí chứ đừng nói đến chuyện cưỡi ngựa, chỉ có thể chịu chết để những mũi tên tẩm độc ghim vào cơ thể. Nước độc trên mũi tên có nồng độ cao hơn rất nhiều so với độc loãng mà bọn chúng dùng để đun nấu, dù cho có thể may mắn chạy trốn thì kết cục của những người đấy cũng chỉ có tử vong.
Vài tháng trước, thời điểm Phong Đan tiến về phía Nam để tàn sát con dân Đại Lạc, mỗi một tướng sĩ của chúng chỉ cần nhìn thấy dân thường là sẽ cướp bóc, hàng trăm hàng vạn những dân chúng chăn nuôi gia súc vô tội nơi biên ải đã bị chúng giết hại, không biết bao nhiêu thôn xóm làng mạc bị đồ sát đến mức không còn một sinh mạng nào, đất đai nâu sậm cũng bị nhuốm thành màu đỏ tươi. Mấy vạn dân chúng Khung Châu bị bọn chúng vây nhốt lại trong chính bức tường thành quê hương, bị biến thành nô lệ và lương thực dự trữ, đón nhận những cái chết đau đớn không có chút tôn nghiêm nào.
Mâu thuẫn giữa hai nước cũng không chỉ mới xảy ra trong vài tháng chiến trận này, mấy năm qua Phong Đan cũng đã không ít lần đánh đập cướp bóc những con dân nơi biên ải của Đại Lạc, cho nên kết quả của trận chiến lần này là mấy vạn binh lính của Phong Đan bị tàn sát, toàn bộ khu vực Ngụy Môn Quan chất chồng xương trắng, máu chảy thành sông, song những tướng sĩ đi theo Mộ Cẩm Ngọc lại chỉ cảm nhận được sự sung sướng tràn trề khi đã báo được thù lớn, đây cũng là những gì Phong Đan đáng nhận.
Tin tức về chiến trận rất nhanh đã được truyền đến những châu khác ở phía Bắc, dân chúng nơi nơi đều vô cùng vui mừng hân hoan, kha khá quan viên ở kinh thành cũng đã bắt đầu thay đổi cái nhìn về Thái tử.
Nghe xong chuyện này, Ninh Hoàn cười nhẹ: “Đúng như dự kiến.”
“Chắc Thái tử điện hạ sẽ sớm hồi kinh thôi.” Sở Hà chà xát tay, “Giờ đây ngài ấy đã không còn giấu tài nữa, cả kinh thành nhất định sẽ cực kỳ trầm trồ sợ hãi.”
Ninh Hoàn nhìn hắn thì lại cười: “Tạm thời Thái tử sẽ chưa về đâu, ngài ấy đã định sẽ giết Vương của Phong Đan để giải quyết trong một lần luôn, muốn bọn chúng phải hoàn toàn mất đi khả năng ngóc đầu lại lần nữa.”
Hạ Thuật Tất chỉ là Đại Hoàng tử của Phong Đan, số tướng sĩ chết trận lần này của bọn chúng chỉ có thể khiến chúng im ắng được vài thập niên, đợi đến khi Phong Đan nuôi quân lớn mạnh lần nữa, chắc chắn chúng sẽ lại xâm phạm quốc thổ Đại Lạc. Mộ Cẩm Ngọc muốn chặt đứt đường lui của bọn chúng.
“Thật sao? Vậy thì lại phải mất vài tháng nữa rồi.”
Sở Hà lại bắt đầu lo lắng cho an nguy của Mộ Cẩm Ngọc.
Ninh Hoàn tìm một cái bình gốm để cắm hoa lê vào, thời gian nó nở quá lắm cũng chỉ được vài ngày. Y mang bình hoa đặt vào trong dược phòng, nơi này cũng không khác gì thư phòng riêng của y, cạnh cửa sổ còn được đặt bàn nhỏ và văn phòng tứ bảo[2].
[2]Không khí của kinh thành khác biệt rất nhiều so với những nơi khác, bởi đây là mảnh đất phồn vinh và náo nhiệt nhất của Đại Lạc, có rất nhiều tiểu thương sẽ đến đây để mở sạp buôn bán, cũng có kha khá những người đến từ nước khác nhập cư tại đây. Người đến người đi không ngừng nghỉ, cứ cách một khoảng thời gian là đồ vật thịnh hành trong kinh cũng sẽ thay đổi.
Hai ngày nay Ninh Hoàn thường xuyên đi dạo trên phố xá, y bắt gặp không ít những vị công tử trẻ tuổi tay xách theo một cái lồng chim, mà trong mỗi lồng đều là những con chim với đủ mọi màu sắc khác nhau.
Y cũng tham gia cuộc vui này bằng cách làm ra một cái lồng chim màu vàng, nhưng là một cái lồng chim trơ trọi chẳng có gì, dù là một vật trang trí nhỏ cũng không, hơn nữa đây vẫn chỉ là một bán thành phẩm, phần đỉnh gắn móc và bệ chim đều chưa thấy đâu.
Sở Hà ngồi xổm bên cửa sổ xem Thái tử phi nghịch ngợm cái lồng sắt này, Thái tử phi nói muốn làm ra một cái lồng thật đẹp để nhốt chim chóc, nhưng trong kinh thành cũng có rất nhiều sư phụ chuyên làm lồng chim cơ mà, Thái tử phi chỉ cần nói một câu thôi là hắn sẽ đi xách mấy người đó tới phủ ngay lập tức. Sở Hà nghĩ mãi cũng chỉ có thể đưa ra kết luận, có lẽ mấy vị sư phụ hành nghề vài thập niên đó làm không đẹp được như Thái tử phi.
Ninh Hoàn bảo hạ nhân đi kiếm cho y ngà voi, gỗ tử đàn, sừng tê giác, lưu ly, con đồi mồi và vài loại đá quý nhiều màu khác. Trang sức lúc thành thân y mang theo tới đây cũng có không ít, mở rương ra kiểu gì cũng sẽ tìm được vài món đồ trông rất tinh xảo, Sở Hà quan sát Thái tử phi ngồi điêu điêu khắc khắc lên ngà voi và gổ tử đàn vài cái, sau đó lại không chút chần chừ giật luôn viên huyết thạch[3] to như trứng chim bồ câu đính trên mũ phượng, tiếp theo đó còn đập vỡ một cái vòng tay phỉ thủy màu xanh biếc. Cuối cùng thì sau mấy ngày ngủ không ngon giấc, Sở Hà đã được chiêm ngưỡng một cái lồng vàng cực kỳ tinh xảo xinh đẹp, cho dù có đem đến trước mặt Ngọc Hoàng Đại Đế thì cũng không sợ mất mặt.
[3]
Bởi vì ngày xưa Ninh Hoàn đã từng rất phá của, cộng thêm việc y từng chơi cùng một đám công tử cũng phá phách không kém, nên dĩ nhiên y biết cái gì mới có thể thu hút được sự chú ý của những vị phá gia chi tử này.
Tuy vàng bạc đá quý nhìn có vẻ rất tục, không thể đem so với sự thanh nhã của tranh vẽ cành trúc hoa lê hoa cúc được, song nó lại là những đồ cực kỳ thích hợp để khoe mẽ thân phận địa vị, bởi cái đám người phá của ấy thích nhất là phô trương danh tiếng. Ninh Hoàn đã nhìn quá nhiều những món đồ đẹp đẽ rồi, y hiểu nhất là cách phối hợp chúng ra sao để toát ra được vẻ cao quý không thô tục, trên ngà voi được y khắc hoa văn sen trắng, phần nhụy hoa thì đính thêm những viên ngọc bích và đá quý nhỏ, phần thân lồng còn được y gắn vô số châu báu, hốc đựng thức ăn cho chim và cửa lồng đều được tráng men xanh hình hoa sen.
Sở Hà hỏi: “Nương nương định dùng chiếc lồng đẹp như này để nhốt loài chim nào ạ? Ngài cũng muốn nuôi một con sao? Hay để thuộc hạ đi mua một con Vương Mẫu về?”
“Ta không nuôi.” Ninh Hoàn nói, “Cái này để đem đi đấu giá.” Ai ra giá cao nhất thì mua được.
Sở Hà đáp: “Lồng này ở kinh thành chính là độc nhất vô nhị.”
Giờ hắn cũng đã ngộ ra lý do Thái tử phi muốn tự tay làm cái lồng này, nếu để một vài vị sư phụ có tiếng tăm đụng vào thì rất có thể sẽ xuất hiện ba bốn cái giống nhau y như đúc, vật hiếm là vật quý, món đồ độc nhất như thứ này chắc chắn sẽ càng quý giá hơn thế.
Sở Hà bắt đầu suy đoán ý định của Ninh Hoàn: “Ngài muốn bán cho ai? Có phải Duệ Vương điện hạ không? Chúng ta ra giá một vạn lượng bạc lừa hắn một phen?”
Hai mắt Ninh Hoàn cười cong cong, y vẽ thêm vài nét mực vàng cuối cùng lên phần đế lồng rồi mới để nó sang bên cạnh: “Lúc đó rồi nói sau, lui xuống đi, bổn cung muốn viết thư cho Thái tử.”
Hắn cũng sắp trở về rồi, cũng nên viết một bức thư báo bình an.
Ninh Hoàn cầm lấy thỏi mực, đổ một chút nước vào rồi bắt đầu mài, sau khi đầu bút lông đã thấm ướt, y hạ bút xuống viết lại những chuyện đã xảy ra trong kinh thành dạo gần đây, hết hẳn một trang giấy mới dừng lại, phần đề tên là hai chữ Ninh Hoàn, viết xong y cuộn lại để sang bên cạnh.
Trong lúc nhất thời không biết phải làm gì, Ninh Hoàn lấy thêm một tờ giấy khác ra, y vô thức nhớ lại khung cảnh lạnh lẽo hoang vu ở đất Bắc, nơi đó dường như không cùng một thế giới với kinh thành phồn hoa này. Mực nước chấm mãi không hết, dường như Ninh Hoàn đã thả hồn vào cõi thần tiên nào đó, song cây bút y cầm trong tay lại chưa hề dừng lại, vừa thong dong vừa nhàn nhã viết đi viết lại ba chữ Mộ Cẩm Ngọc, tổng cộng là bốn mươi ba nét bút, dù tên người nọ phức tạp hơn tên y rất nhiều, song viết rồi lại thấy cũng không khó lắm, thế là y cứ vô thức viết kín hết cả tờ giấy bằng kiểu chữ Khải nhỏ, phần đề tên cũng là hai chữ Ninh Hoàn.
Nhiệt độ bên ngoài lại bắt đầu nóng lên, những con chim không biết từ đâu đến lại đứng trên cây kêu loạn lên khiến người ta thấy phiền, Ninh Hoàn nằm trên bàn sách ngủ gật một giấc, khi tỉnh lại thì mực trên giấy đã khô, y bèn gấp lại rồi nhét vào phong thư, lá thư đầy ắp chữ được thủ hạ truyền tin đến phương Bắc.Lúc Mộ Cẩm Ngọc mở thư ra, đập vào mắt hắn là một tờ giấy kín mít đều là tên của mình.
Hắn hơi khó hiểu, tuy rằng A Hỉ từ nhỏ đã làm thái giám, không có chút kinh nghiệm tình trường nào, song bên cạnh hắn cũng chẳng còn ai có thể hỏi chuyện này nữa, Mộ Cẩm Ngọc vẫn quyết định hỏi A Hỉ: “Thái tử phi có ý gì, y gửi tới một bức thư nhưng lại chỉ viết đầy tên của cô.”
A Hỉ ngẫm nghĩ một lúc nhưng vẫn nghĩ không thông, nên cuối cùng hắn đành phải nịnh nót vài câu dễ nghe: “Thái tử phi nương nương tình sâu nghĩa nặng với điện hạ, chắc là ngài ấy đang nhớ nhung điện hạ lắm cho nên mới viết đầy tên của điện hạ đấy ạ.”
Mộ Cẩm Ngọc thấy lời này vô cùng hợp lý, hắn lập tức muốn cứa tay vẽ thêm một bức huyết đào cho Ninh Hoàn.