Bầu trời trên miếu hoang lại trở nên tĩnh lặng, không ai có thể nhận ra nơi đây vừa phát sinh một trận đại chiến giữa những người tu tiên.
Mấy người Hàn Lập bình an vô sự trở về Tần trạch, trực tiếp từ trên không hạ xuống.
Vì sợ đêm dài lắm mộng, Hàn Lập bất kể giờ giấc, ngay trong đêm đó bắt đầu thẩm vấn tiểu vương gia hai người.
Hàn Lập định thẩm vấn Tiểu vương gia, còn Vương tổng quản thì giao cho Mông Sơn tứ hữu xử lý, tin tưởng rằng sự khắc nghiệt của lão giả mặt đen sẽ cho hắn một đáp án vừa lòng.
Bắt một người tu tiên mở miệng nói ra sự thật có lẽ là việc phiền tóai đối với nhiều người, nhưng đối với kẻ tinh thông mê hồn pháp thuật và dược vật như Hàn Lập mà nói thì căn bản chẳng thành vấn đề. Đặc biệt, tu vi của đối phương lại kém xa hắn.
Mặc dù vị Tiểu vương gia này ngay từ đầu đã tỏ vẻ tuyệt đối không mở miệng, nhưng khi Hàn Lập hỏi vài câu, thấy đối phương cự tuyệt không chịu hợp tác, liền không khách khí tặng cho hắn một bình thuốc. Kết quả là hắn thần trí mơ mơ hồ hồ, rơi vào huyễn hoặc.
Sau đó, Hàn Lập lại dùng Mê hồn Huyễn sắc nhãn, rất thuận lợi nắm được tâm thần của hắn, biến hắn thành một con rối, ngoan ngoãn trả lời hết thảy.
Nghe Tiểu vương gia kể lại, vẻ mặt của Hàn Lập biến đổi liên tục, lúc đầu thì nghiêm trọng lạnh lùng, tiếp đó là ngạc nhiên, cuối cùng là vẻ khó xử lẫn buồn bực.
Sau khi xác nhận rằng mọi bí mật trong lòng Tiểu vương gia đã lộ hết, Hàn Lập trầm ngâm lấy trong áo ra một viên thuốc màu đen đã chuẩn bị từ trước, nhét vào miệng hắn, sau đó không thèm liếc mắt, đi về phía Thanh Âm Viện nơi Mông Sơn tứ hữu đang thẩm vấn.
Viên “Đoạn hồn đan” này có thể khiến người uống chết một cách vô thanh vô tức.
Mặc dù dùng độc giết chết một người không hề có phản kháng khiến trong lòng Hàn Lập có chút không thoải mái nhưng căn cứ theo ma công mà Tiểu vương gia tu luyện, đã dùng mấy mươi tên tu sĩ để huyết tế thì hắn chết cũng không tính là oan uổng.
Khi tới Thanh Âm Viện, đúng lúc Mông Sơn tứ hữu đang đứng thương lượng chuyện gì đó cùng nhau, vẻ mặt trầm trọng. Gặp Hàn Lập đi đến, mấy người đều tiến tới nghênh đón hắn lên ghế chủ tọa.
Hàn Lập không từ chối, ngồi xuống, nói:
“Thế nào, vị Vương tổng quản có tin tức gì không?”
Mông Sơn tứ hữu liếc mắt nhìn nhau, đại ca của cả hội là lão giả mặt đen đứng lên trả lời:
“Tiền bối có thể cũng đã biết, nếu những gì chúng ta bên này thu được là không sai thì sự tình chỉ sợ có chút phức tạp rồi.”
Nói xong, lão giả liếc trộm Hàn Lập một cái, nhưng chỉ thấy sắc mặt hắn vẫn như thường, không hề tỏ vẻ gì.
Lão giả đành cân nhắc một chút, rồi nói tiếp:
“Từ trong miệng của Vương tổng quản, tại hạ biết được rất nhiều tin tức liên quan tới Hắc Sát giáo, nhưng đều không có tin gì khẩn yếu mà chỉ có một chuyện rất quan trọng. Vị Hắc Sát Giáo chủ không ngờ lại đang trốn ở hoàng thành đại nội, hơn nữa đương kim hoàng đế phàm nhân của Việt quốc sớm đã bị thao túng, trở thành con rối trong tay hắn. Giờ đây, hoàng cung chính là hang ổ của Hắc Sát giáo. Còn đại nội tổng quản của hoàng cung, một vị thái giám tên là Lý Phá Vân chính là Hắc Sát giáo chủ, nghe nói đang bế quan tu luyện.”
Lão giả mặt đen vừa nói vừa nhíu mày, cảm thấy thực sự không đơn giản. Mặc dù người tu tiên vẫn coi thường phàm nhân, nhưng vẫn có chút kiêng kị đối với người thống trị tối cao của thế giới phàm nhân.
Hàn Lập nghe nói vậy, vẻ mặt cũng không có gì thay đổi, nhưng trong lòng không ngừng thở dài.
Hắn không phải là sợ hãi hoàng đế mà biết rõ rằng hoàng thất đương thời của Việt quốc trên thực tế là do cả bảy phái cùng ủng hộ.
Nhưng cũng vì thế mà các phái đều có quy định bất thành văn: nghiêm cấm đệ tử bảy phái bước vào hoàng thành nửa bước, phòng khi có một phái ỷ thế cầm tù hoàng thất rồi tạo thành bất lợi đối với các phái còn lại.
Vì vậy mà cả mấy trăm năm nay, trong hoàng thành Việt quốc không hề có bóng dáng của bất cứ đệ tử nào của bảy phái. Chỉ cần hoàng đế Việt quốc không có sai sót gì đối với bảy phái thì bảy phái sẽ hoàn toàn để hắn tự do hành động. Có lẽ chính vì vậy mới để cho Hắc Sát giáo thừa cơ hành động.
Hàn Lập sau khi cân nhắc những điều thu được từ trong miệng Tiểu vương gia, suy đi tính lại vài lần nhưng đều không quyết định được nên làm thế nào cho tốt.
Quy định này đã kéo dài lâu như vậy, cho dù mình có thể lật tẩy được bộ mặt thực của Hắc Sát giáo chủ, nhưng việc xâm nhập hoàng thành thì ai mà biết có thể lấy công chuộc tội được hay không? Nói không chừng, ngược lại còn phải chịu phạt nặng.
Sự việc phải trái trắng đen không rõ ràng này quả thực khiến hắn rất đau đầu. Xa rời khỏi bảy đại phái lâu như vậy, điều gì cũng có thể xảy ra.
Đôi khi quyền uy của phong tục còn vượt xa sự tình đúng sai, căn bản không thể xâm phạm chút nào. Điều này khiến Hàn Lập cực kỳ kiêng kị.
Hắn cũng không muốn làm một kẻ phí công mà lại không được lòng người.
Chỉ có điều, vừa mới hỏi cung đơn giản một chút mà đã biết được thân phân thực sự của Hắc Sát giáo chủ, quả thực là ngoài dự kiến của Hàn Lập.
Chẳng qua điều này cũng là cơ duyên trùng hợp. Từ miệng của Tiểu vương gia, hắn biết rằng cho dù là mấy vị đàn chủ Trúc Cơ kỳ của Hắc Sát giáo cũng chưa từng thấy mặt Giáo chủ, càng không thể biết chút nào về lai lịch.
Vậy mà hai người bọn chúng lại biết được thân phận của Giáo chủ Hắc Sát giáo. Tất cả điều này là bởi vì Vương tổng quản và Tiểu vương gia hai người đều có quan hệ rất không bình thường với Hắc Sát giáo chủ.
Một người có ơn cứu mạng với một vị đường huynh của Hắc Sát giáo chủ. Người còn lại là ký danh đệ tử duy nhất, cực kỳ được yêu quý và tin tưởng. Quan hệ thân cận như thế, bọn họ mới có thể biết được thân phận thực sự.
Nếu không, kinh thành Việt quốc lớn như vậy làm sao tới lượt họ là hai giáo chúng chỉ mới tới Luyện Khí kỳ lại có thể chủ trì giáo vụ ở đây.