Ô Di Hà không nói gì nữa. Quỳ Dạ Ngao phổ biến nội quy sơn cốc. Đơn giản mỗi người trong sơn cốc ngày nào còn ở đây thì sẽ tham gia vào sinh hoạt chung, săn bắn, hái lượm, chăn dắt, nuôi trồng ngũ cốc. Nếu còn ở lại sơn cốc thì không xuống núi, còn nếu xuống núi thì theo đường phía Tây đi xuống, không để lộ tung tích sơn cốc cho lũ giặc ngoài kia.
Khi hai người chuẩn bị rời đi, Hoàn Thừa Lân mới hỏi, “Cốc chủ không biết có nghe ngóng được thông tin gì về Lãnh binh châu đốc Hoàn Thừa Ngạn và gia quyến không?”
Dạ Ngao đáp, “Ta chưa nghe nói, nhưng những người ở đây có thể trả lời cho thiếu hiệp. Hoàn đại tướng với thiếu hiệp quan hệ như nào?”
“Người đó là cha tại hạ.”
“Thảo nào; thảo nào.” Dạ Ngao gật gù, rồi không nói gì nữa. Thừa Lân cũng không hiểu những lời vừa rồi của cốc chủ là có ý gì.
Bọn Hà, Lân tắm rửa rồi tụ tập trong một vách ngăn trong sơn cốc. Họ ăn một bữa tối ngon lành, đầy đủ mà lâu lắm rồi vẫn chưa được ăn. Ô Di Đạo liên tục tấm tắc khen tài nghệ của Từ Túc Anh, nói rằng bàn tay kì diệu của nữ nhân như một liều thần dược khiến hắn khỏe ra năm, bảy phần. Kì thực thì y sĩ nào đã thức tỉnh nội công tầng thứ ba đều có thể trị thương như Từ nương, chỉ là họ Từ quá xinh đẹp nên Ô Di Đạo một phen nhiều lời. Nếu là nam nhân thì hắn đã không đếm xỉa, thậm chí có khi còn mắng chửi khi được dặn là trong vài ngày tới không được đụng tới rượu.
Bọn họ đang ăn tối thì nghe thấy tiếng nói chuyện từ vách ngăn đối diện. Bên đó có hai kẻ mặc thường phục, vừa nốc rượu vừa lèm bèm với nhau.
Kẻ thứ nhất nói, “Lúc thằng chó đẻ Hung Nô đó đụng vào thê tử của ta, ngươi biết nó làm cái gì không? Nó xé toạc quần áo trên người thị ra! Ta chỉ hận lúc đó tay trói sau lưng, dao kề cổ, không thể làm gì, không ta đã băm vằm nó ra thành nghìn mảnh!”
Kẻ thứ hai đôi mắt long sòng sọc. “Giống dã thú! Bọn chúng giết chết hài nhi của ta, xác con ta ta còn không được nhìn lần cuối! Bây giờ đây chỉ cần quan quân Kim quốc đi qua đây, bọn họ mà muốn đánh thì ta cũng tình nguyện tham gia. Nếu không trả được thù này thì sống trên đời làm gì nữa!”
Kẻ thứ nhất nước mắt lưng tròng, ứa gan ứa ruột đáp, “Phải chi điều đó là sự thực. Kim chủ đâu có muốn đánh. Nếu không phải vì địch tới quân ta đã hèn nhát vứt cả đao kiếm bỏ chạy, thì đâu có tới nỗi thê thảm thế này?”
Kẻ thứ hai thở dài đườn đượt. “Cứ tưởng tân Kim chủ lên ngôi sẽ khác. Nào ngờ chẳng khá hơn tiền chủ là bao. Không có ai dám đứng lên, nước sắp mất thật rồi.”
Cổ Mạnh Ninh nghe được mới nói nhỏ với cả bọn, “Có vẻ ở đây nhiều người còn quyết tâm kháng Mông lắm. Chi bằng chúng ta dành vài ngày tới mỗi người vài lời thống thiết, thuyết phục bọn họ gia nhập chúng ta, cùng xuống núi sống mái với Hung Nô một phen.”
“Vậy thì còn gì bằng!” Ô Di Đạo vỗ đùi bem bép.
Bữa tối xong xuôi, cả bọn ai nấy đều mệt nhoài, lăn ra ngủ. Hoàn Thừa Lân vừa lim dim ngủ, chợt thấy có ai khẽ lay vai của mình, mở mắt dậy thì mới thấy là Ô Di Hà.
Ô Di Hà nói, “Hoàn đệ, theo ta ra ngoài kia.”
Lân hỏi, “Có chuyện gì vậy?”
Hà đáp, “Ta đã hứa sẽ giúp đệ trau dồi kiếm pháp, lời hứa đó ta không quên đâu.”