Thấy Phú Bật đại nhân nằm ở trên giường tinh thần không tốt, uể oải hơi thở không thịnh, trong lúc xem mạch lại phát hiện giống như là ‘tỳ thận dương hư’. Nhận tiện hỏi: “Có phải là đại nhân có thói quen tiêu chảy vào mỗi sáng sớm hay không?”
Phú Bật gật nhẹ đầu, yếu ớt nói: “Ài, mỗi ngày vào lúc gà gáy sáng thì liền rời giường vào cầu tiêu. Hôm nay…. Ài”. Nói tới đây Phú Bật ảo não thở dài, hung hăng đấm vào cái gối bên giường: “Đều là do cái bụng hại người này, làm cho ta xấu mặt”.
Lần này đi đến huyện Đông Minh, Đỗ Văn Hạo nghe Vương An Thạch nói về vị Phú Bật đại nhân là người không hề kiêu căng ngạo mạn, là một vị quan chính trực thanh liêm, yêu thiện ghét ác, có đủ bốn đức tính của kẻ làm quan: ‘ chân, chân, anh, thần’; tính tình lại vô cùng hiếu thảo, hiểu lễ nghi. Nhưng mà cùng Vương An Thạch bất hòa bởi vì không đồng ý với biến pháp Thanh Miêu. Tống Thần Tông là một vị vua yêu mến hiền tài cho nên cũng không vì Phú Bật không đồng ý với biến pháp của hắn mà nổi giận với Phú Bật.
“Phú đại nhân không nên lo lắng, mọi người đều có lúc không khỏe, lại về căn bệnh của ngài, ty chức cho ngài một đơn thuốc chỉ cần dùng đều đặn một thời gian là không sao nữa”.
“Ngươi chính là vị Đỗ thái y Đỗ Văn Hạo mà Ninh công công nói đến đó sao?” Đây là lần đầu tiên Phú Bật gặp Đỗ Văn Hạo. Ngày thường Đỗ Văn Hạo ở phía sau cùng, vì vậy đương nhiên là văn võ đại thần trong triều rất ít khi gặp hắn, đều chỉ nghe thấy danh tiếng thôi, ít khi gặp mặt.
“Chính là tại hạ”, Đỗ Văn Hạo trả lời.
Phú Bật điềm đạm mỉm cười, nói: “Tuổi trẻ đầy triển vọng”.
“Ty chức chỉ làm hết phận sự của mình thôi, còn phải học tập rất nhiều”.
“Tốt lắm, không nên kiêu ngạo, cũng không nên tự phụ, y học cũng phải học hỏi không ngừng”.
“Phú đại nhân nói rất đúng”, Đỗ Văn Hạo nói liền xong đứng dậy đi đến bàn viết phương thuốc.
Phú Bật hỏi: “Tại sao phải như vậy? Dạ dày của ta từ trước đến nay vẫn không tốt, cái tật xấu này hình thành ý niệm trong đầu, buổi tối dù là ăn bất cứ thứ gì, trời vừa sáng là không thể ngủ nữa, muốn không dậy cũng không thể được”.
Đỗ Văn Hạo mỉm cười, sau đó lại ngồi xuống, nói với Phú Bật: “Trung y cho rằng đây là do ‘tỳ thận dương hư’ mà tạo thành bệnh này, bởi vì thận dương là gốc rễ của dương khí, bệnh này có tên là tả vào buổi sáng hay còn gọi là Ngũ Canh tả.
“Ngươi nói là bệnh này không phải do dạ dày tạo thành, mà là có liên quan tới tỳ thận? Tạo sao thế?” Phú Bật không cho là đúng, hỏi Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo kiên nhẫn giải thích: “Ngũ Canh tả còn gọi là ‘Thận tả’. Đã từng có một danh y nói rằng vào lúc gà gáy sáng đến rạng sáng ‘là dương trong ngày, âm trong dương'(thiên chi âm âm trung chi dương dã). Bởi vì dương khí lúc này không thịnh, hư tà lưu lại mà không tan, dẫn tới tả vào sáng sớm”.
Thật ra những lời này là của một danh y vào triều Thanh nói, nhưng mà Đỗ Văn Hạo hiểu rằng Phú Bật hiển nhiên là sẽ không biết, sau Đại Tống còn có Nguyên, Minh, Thanh…Ở triều đại này không biết còn có dân quốc, sự biến đổi về hợp tác cùng Tây An, càng không biết về kính râm, quần jean cùng đặc khu kinh tế, cho nên không cần phải nói ra. Chỉ cần trị bệnh cho tốt là được rồi.
Lại nói về căn bệnh Ngũ Canh tả này, là liên quan đến cách tính thời gian bằng tiếng gà gáy sáng ở thời cổ đại. Thời cổ, một ngày được chia làm sáu khoảng thời gian: Rạng sáng, trong ngày, xế chiều, hoàng hôn, buổi tối, kê minh (thời điểm gà gáy sáng). Trong đó: ‘Rạng sáng, trong ngày, xế chiều thì thuộc về dương. Hoàng hôn, buổi tối, kê minh thì thuộc về âm’. Mà lúc gà gáy sáng là thời điểm chuyển hóa âm dương. Ý tứ của các bậc tiền bối là vào lúc gà gáy sáng hay là Canh Năm là thời điểm bị tiêu chảy, bởi vì dương khí lúc này chưa xuất hiện mà âm khí thì đang dần biến mất, từ đó làm cho âm khí trong bụng thịnh, còn dương khí thì suy yếu. Bởi vì dương khí thì ấm áp, mà trong bụng không đủ độ ấm thì thức ăn ở trong dạ dày hấp thu khí lạnh, dạ dày và ruột không được làm ấm. Không thể giữ được các vật ở bên trong nên dẫn tới tiêu chảy.
Phú Bật nghe xong, nửa hiểu nửa không, dù sao bản thân lão cũng không phải là đại phu cho nên không hiểu cũng là chuyện bình thường. Nhưng mà Phú Bật này có một tật xấu, đó chính là rất hay truy hỏi cặn kẽ, kỹ càng sự việc. Tuy rằng lão không có nghiên cứu về y thuật nhưng cũng rất muốn biết nguyên nhân gây ra căn bệnh này của mình.
“Đỗ đại nhân, ngài có thể nói cho ta biết sẽ trị căn bệnh này như thế nào hay không, bản thân ta rất ghét uống thuốc, có phải là sẽ phải dùng thuốc trong một thời gian rất dài không?”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười trả lời: “Có một phương thuốc tên là Tứ Thần Hoàn, chuyên trị loại tiêu chảy này, ngài sợ uống thuốc thì ta sẽ cho thêm vào trong thuốc một ít mật ong như vậy sẽ không đắng nữa”.
Ninh công công ở một bên nghe vậy cười trộm, cảm thấy giống như là Đỗ Văn Hạo đang dỗ một đứa bé uống thuốc vậy.
Phú Bật thấy Ninh công công cười mình, liền lên tiếng: “Ngươi cười cái gì?”
“Không, không cười gì cả, ta chỉ muốn nói: Sớm biết có thể cho mật ong vào trong thuốc thì lần trước ta khi ta bị bệnh đã yêu cầu Đỗ đại nhân làm vậy, vì ta cũng sợ đắng”.
“Ta vốn bị tiêu chảy nên không dám uống mật ong, vì sợ đắng nên không dám uống thuốc, nếu không hôm nay làm sao mà bị xấu mặt như vậy chứ”. Phú Bật cau mày, vẻ mặt khổ sở vô cùng.
“Không có gì đáng ngại, tràng vị của ngài không có vấn đề”. Đỗ Văn Hạo giải thích.
Phú Bật nghe vậy thì vui mừng, lập tức ngồi dậy nói với Đỗ Văn Hạo: “Từ trước đến giờ ta cũng rât thích xem sách y thuật, tuy rằng không thấu triệu được như ngài, nhưng cũng có phần hứng thú. Ngài có thể nói cho ta biết Tứ Thần Hoàn rốt cuộc là bốn vị thuốc nào không?”
Ninh công công ở một bên cất lời: “Tại sao Phú đại nhân lại biết được rằng trong đó có bốn vị thốc”.
“Đúng vậy! Có bốn thuốc chính, Phú đại nhân nói không hề sai”, Đỗ Văn Hạo nói.
Phú Bật đắc ý nhìn Ninh công công, nói: “Ta đã nói rồi, ta có xem qua y thư mà”.
Đỗ Văn Hạo cùng Ninh công công liếc nhau, không nhịn được mà đều nở nụ cười.
Đỗ Văn Hạo nói: “Bốn vị thuốc chủ yếu trong Tứ Thần Hoàn là: Phá Cố Chỉ, Nhục Đậu Khấu, Ngũ Vị Tử, Ngô Thù Du, ngoài ra còn có hai vị thuốc là gừng cùng táo đỏ, hai vị này dùng để điều hòa. Trong tất cả các bài thuốc trong cổ thư có nói: ‘Đây là Túc Thiểu Âm dược’. Túc Thiểu Âm chính là ‘Túc Thiếu Âm Thận kinh’, trong đó có nói rằng đây là bài thuốc bổ thận. Đại phu Uông Ngang thời Thanh nói: ‘Hễ là tả lâu dài thì đều là do tính hỏa của thận suy yếu, không thể chuyên trách tì vị, cổ nhân có nói về tả như thế này: ‘Nước ra không thể khống chế, thận là thủy trong Ngũ Hành, tỳ là là thổ trong Ngũ Hành, có câu thổ khắc chế thủy…”
“Ta hiểu ý của ngài rồi, cái này giống như chúng ta thường nói: ‘Binh tới tướng đỡ, nước tới đắp đất chặn’. Cho nên muốn bổ tỳ thì phải khống chế thủy trong cơ thể. Có đúng vậy hay không?” Phú Bật cướp lời, nói.
Đỗ Văn Hạo bội phục gật đầu.
Phú Bật cao hứng. Lại hỏi: “Phá Cố Chỉ là thứ gì, có phải là những giấy vụn, giấy loại của sách cũ không cần dùng đến không?”( Phá Cố Chỉ là tên 1 loại thuốc, nhưng mà nếu dịch ra nghĩa thì nó có nghĩa là: Trang giấy rách nát. Cho nên Phú Bật mới hỏi như vậy).
Đỗ Văn Hạo nhịn không được mà cười to, lão thái giám ở một bên cũng cười theo, nhưng Phú Bật vẫn không hề tức giận, hỏi tiếp: “Đó là cái gì? Nhanh nói cho ta biết, lần sau có người bị bệnh như lão phu, thì ta cũng có thể khai phương bốc dược cho hắn”.
“Phú đại nhân có lòng hiếu học, thật là khiến cho ty chức bội phục vô cùng. Phá Cố Chỉ là danh xưng thật sự là Bổ Cốt Chi, vốn nó là một loại quả họ đậu, người xưa còn gọi nó là Bổ Cốt Chi, Phá Cố Chỉ hoặc là Hắc Cố Tử. Trong y thư cổ đại ‘ Bản thảo cương mục’ có nói rằng vị thuốc này có thể giúp ‘tráng hỏa ích thổ’.
“Ồ, thật là hay. Giờ ta đã hiểu được rồi, không cắt lời ngài nữa, ngài tiếp tục nói đi”.
“Nhục Đậu Khấu làm ầm tỳ thận, hơn nữa ‘Sáp tràng chỉ tả’, có thể nói là vị thuốc gốc của phương thuốc, Ngô Thù Du làm ấm tỳ vị hơn nữa ‘tán hàn lợi thấp’, Ngũ Vị Tử có thể làm ấm tràng vị, ‘sáp tràng chỉ tả’, đó là bốn vị chủ yếu của phương thuốc này. Từng có danh y nói rằng, đây là bốn loại thuốc thần kỳ, trị thận tiết niệu như thần vậy. Cho nên mới gọi là Tứ Thần Hoàn, ngoài bốn vị thuốc chính này thì còn có hai vị thuốc: Gừng, táo. Ở trong Thương Hàn Luận đại phu Trương Trọng Cảnh thường xuyên dùng tới hai vị thuốc này, nói hai vị thuốc này dùng chung có thể dùng điều hòa Doanh Vệ. Gừng có thể ‘ tán hàn hành thủy’. Táo có tác dụng tẩm bổ tỳ vị, cũng có tác dụng với bệnh Ngũ Canh tả. Cho nên tổng hợp cả phương thuốc gồm có sáu vị thuốc, có thể nói là đã rất đầy đủ.
Phú Bật không ngừng gật đầu. Trên khuôn mặt cũng lộ ra vẻ khâm phục Đỗ Văn Hạo.
“Giảng thật là hay, khó trách Hoàng Thượng không gọi ai khác mà chỉ hỏi ngài, quả là không hề sai, sau này lão phu cũng chỉ tìm ngài để xem bệnh cho ta”.
Ninh công công tiến lên trêu đùa: “Phú đại nhân, ngài nghe đã hiểu rõ ràng chưa?”
Phú Bật “ừ!” một tiếng xem như trả lời.
“Để cho Đỗ đại nhân ‘khai căn kê đơn’ cho ngài, ngài nằm xuống nghỉ ngơi cho tốt đi”.
“Được rồi, vậy làm phiền Đỗ đại nhân vậy”.
“Phú đại nhân, ngài khách khí rồi! Để ty chức kê đơn cho ngài”.
Từ Càn Thanh cung đi ra, Đỗ Văn Hạo liền gặp Tiểu Tề là thiếp thân nha hoàn của Dụ Cáp Nhi, hẳn là cô nương này đã đứng chờ ngoài cung từ trước. Thấy Đỗ Văn Hạo đi ra, vội vàng mỉm cười tiến lên nghênh tiếp.
“Sao ngươi lại ở chỗ này?” Đỗ Văn Hạo hỏi.
“Nương nương lo rằng ngài quên không qua lấy mật hoa hồng, cho nên sai nô tỳ ở đây chờ ngài”. Tiểu Tề có khuôn mặt tròn, con mắt nho nhỏ, cười cho người ta cảm giác đôi mắt không đẹp, nhưng hàm răng thì mọc rất đều lại trắng nõn.
Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm: Đã lo ta quên thì sao không bảo Tiểu Tề đưa đến luôn, cần gì nhất định phải gọi mình qua lấy, xem ra Dụ Cáp Nhi tìm mình có việc gì đó.
Tiến tới Nhạc Đồng Cung của Dụ Cáp Nhi, Đỗ Văn Hạo còn đang suy nghĩ không biết Dụ Cáp Nhi tìm mình có việc gì, khi bước vào cửa không chú ý tới bậc cửa tý thì ngã nhào.
“Đỗ đại nhân, ngài đi thong thả một chút”. Tiểu Tề không dám cười, vội vàng tiến tới đỡ.
Đỗ Văn Hạo vội bám lấy khung cửa, vừa cười vừa nói: “Đại khái là do mệt nhọc, thời gian gần đây hơi vất vả”.
Tiểu Tề dìu Đỗ Văn Hạo bước vào cửa, Nhạc Đồng Cung này so với các cung điện của những quý phi khác thì nhỏ hơn rất nhiều. Nghe nói nơi này từ trước là nơi ở của một mỹ nhân rất được Hoàng Thượng yêu mến, về sau mỹ nhân kia vì khó sinh mà chết, chỗ này từ trước đến nay không hề dùng đến. Các phi tử khác đều không muốn ở, ngược lại Dụ Cáp Nhi không để ý đến việc này, thế là Tống Thần Tông liền sai người tu sửa lại nơi này làm chỗ ở cho Dụ Cáp Nhi.
Trong vườn có rất nhiều cây trúc, cũng chưa lớn lắm, đại khái là sau khi Dụ Cáp Nhi đến ở mới được trồng, nhưng mọc rất tươi tốt.
“Mời Đỗ đại nhân đến lương đình chờ nô tỳ đi gọi nương nương tới”, Tiểu Tề nâng váy, chạy vào trong nhà.
Đỗ Văn Hạo một mình đừng trong vườn quan sát khắp nơi, ngắm đình đài lầu các, nghe chim hót, ngửi hương hoa. Một lát sau, đột nhiên nghe sau lưng có tiếng người nói: “Ta đã sai công tượng tu sửa lại giống như nhà của ta ở Giang Nam, Đỗ đại ca xem có được không?”
Đỗ Văn Hạo không quay đầu lại, chỉ nói một tiếng ‘đẹp’, lúc này Dụ Cáp Nhi đã tiến đến bên cạnh, Đỗ Văn Hạo ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng giống như hoa nhài.
“Thân thể của Phú đại nhân không trở ngại rồi chứ?”
“Đã tốt rồi, không có gì trở ngại nữa, đã khai phương bốc dược cho hắn rồi, dùng vài lần là sẽ khỏi hẳn”.
Hai người vừa nói chuyện vừa đi tới đình nghỉ mát ngồi xuống, cung nữ nhanh chóng bưng tới một ít hoa quả cùng điểm tâm sau đó lui xuống.
Dụ Cáp Nhi lấy một quả anh đào trên mâm trái cây đưa cho Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo vội vàng tiếp lấy nhưng không có ăn.
“Tại sao không ăn? Sợ ta hạ độc trong quả anh đào này ư?” Dụ Cáp Nhi nhìn Đỗ Văn Hạo, giống như cười mà không phải cười, cất lời.
“Ngươi nói như vậy, chẳng phải là ngươi chuẩn bị hạ độc vào quả anh đào này sao?”
Dụ Cáp Nhi nở nụ cười. Đỗ Văn Hạo cho quả anh đào vào miệng, quả nhiên hương vị ngọt ngào vô cùng.
“Ăn ngon chứ?”
Đỗ Văn Hạo gật nhẹ đầu trả lời: “Ngon lắm!”
“Hôm nay ta đến hậu cung, nghe hoàng hậu nói Lưu quý phi đã mang thai”. Vẻ mặt của Dụ Cáp Nhi có phần cô đơn.
Đỗ Văn Hạo hiểu rằng Dụ Cáp Nhi đã đi vào vấn đề chính, cũng không vội tra hỏi mà muốn để cho nàng nói hết lời.
“Vài ngày gần đây hoàng thượng đều ở trong nội cung của các phi tử khác, ta không gặp được hắn”.
Đỗ Văn Hạo vẫn không nói gì, bởi vì căn bản là hắn không biết nói cái gì cho phải, Dụ Cáp Nhi cũng không phải là gì của mình, hắn biết nói gì đây?
Dụ Cáp Nhi thấy Đỗ Văn Hạo chỉ cúi đầu uống trà, không nói lời nào, bèn nói tiếp: “Thật ra ta không muốn làm phiền ngài, thật sự là vậy”.
Ngay cả từ “ngài” cũng đã nói, xem ra chuyện mà Dụ Cáp Nhi muốn mình lo liệu hẳn là tương đối ‘xương’ đây.
“Nương nương không nên khách khí, chỉ cần là có thể làm được, ta sẽ cố gắng hết sức”. Đỗ Văn Hạo lưu lại cho mình một đường lui, thầm nghĩ: ‘Ta không nói nhất định sẽ làm được mà chỉ nói là sẽ cố gắng hết sức’. Bài học này là hắn học được ở trong nội cung.
“Chỉ cần ngài muốn làm, thì nhất định sẽ làm được”, Dụ Cáp Nhi làm ra dáng vẻ đáng thương, nói.
“Xin nương nương nói rõ”.
“Ta muốn ngài nói với Hoàng Thượng là Lưu quý phi thật ra không có mang thai, chỉ là mắc một thứ kỳ quái nào đó”.
Đỗ Văn Hạo ngẩn ra. Nếu như mình làm vậy thì chẳng khác nào một tên Phó Hạc thứ hai. Chẳng lẽ Dụ Cáp Nhi muốn bước vào vết xe đổ của Trần mỹ nhân ư?