Hành động cướp người của anh thoạt nhìn có vẻ như là một thoáng ngông cuồng, tuy nhiên Ngọc Huyên biết rõ, trong lòng anh chắc chắn đã cân nhắc kỹ hậu quả của việc này. Thậm chí anh còn sẵn sàng đối mặt với nó.
Thực tế chứng minh Ngọc Huyên nghĩ không sai. Lúc đang song song phi ngựa lên Tuyết Nhạn, Khung Dực liếc Kỷ Phong một cái rồi nói:
“Muốn cằn nhằn mắng chửi gì thì cứ nói hết đi, ngươi nhịn mấy ngày cũng đủ rồi đấy.”
Trái lại, Kỷ Phong chỉ im lặng lắc đầu. Đưa tay gạt phăng một cành cây chắn ngang đường, Kỷ Phong nắm chắc dây cương rồi thúc gót, con chiến mã của hắn hí lên một hồi dài.
“Không có.” Kỷ Phong đáp lời. “Thuộc hạ còn hâm mộ ngài là đằng khác.”
Khung Dực nghe ra lời Kỷ Phong nói không có một chút mỉa mai nào. Hắn quay sang nhìn người thân vệ đã ở bên cạnh mình rất nhiều năm, đoạn nén một tiếng thở dài.
Nhị vương tử còn có bản lĩnh đoạt lại người thương, trong khi bản thân hắn cho dù là dũng khí thốt ra ba chữ “ngươi đừng đi” cũng không hề có.
“Lần này ngài định giải thích với Vương Đô thế nào?”
“Giải thích gì nữa, chẳng phải đã quá rõ ràng rồi sao?” Khung Dực rạp người né một mớ dây leo lòa xòa buông thõng xuống ngang đường ngựa chạy. “Tội nhất định phải nhận, hình phạt nhất định phải chịu. Thế nhưng vẫn còn có thể lấy công chuộc tội.”
“Ý ngài là lần đánh đuổi sơn tộc này à?” Kỷ Phong thắc mắc hỏi. Phía trước đã thấy thấp thoáng bóng người cùng tiếng va chạm leng keng của binh khí. Lẫn trong gió là mùi máu tanh nhàn nhạt.
“Dĩ nhiên là không.” Khung Dực nói rồi tuốt trường kiếm bên hông ra, cùng lúc đó Kỷ Phong cũng rút mũi tên lắp vào dây cung, sẵn sàng tương trợ Thống lĩnh Nhạn Quân lâm trận.
Trước khi giục Tiểu Hổ xông vào giữa chiến trận, Khung Dực nhìn thẳng vào Kỷ Phong rồi nói với hắn tám chữ rành rọt:
“Diệt xà, trảm thủ, mang về kinh đô.”
Lúc Kỷ Phong còn đang sững sờ chưa kịp định thần “tiêu hóa” tám chữ đó thì đã nghe tiếng Lâm Sách kêu lên mừng rỡ.
“Thống lĩnh! Kỷ Phong! Lão Lý! Mọi người về rồi à?”
Khung Dực quét trường kiếm gạt phăng những mũi phi tiêu đang lao lại từ chiến tuyến bên kia, đoạn nhảy xuống Tiểu Hổ rồi phóng đến bên cạnh Lâm Sách.
“Lâm Sách! Thế nào, lần này đánh rát không?” Khung Dực tóm một mũi tên ghim trên thân cây gần đó, đoạn giật ra xem xét. “Tên không có độc, của tộc Nùng.”
“Bẩm Thống lĩnh, đúng thế. Lần này chúng ta đụng độ với tộc Nùng và Dao Tán, không phải Kỉ Di và Hồ tộc. Đánh được hơn mười ngày rồi, thế nhưng bọn chúng vốn yếu hơn Hồ tộc và Kỉ Di nên tạm thời Nhạn Quân vẫn giữ thế thượng phong.”
“Vì sao lại xảy ra xung đột?”
“Bọn chúng vòng xuống chân núi để đi qua mạn đông, có vẻ như muốn hội quân với tộc Hồ và Kỉ Di. Bình thường thì bốn bộ tộc này chỉ họp mặt khi đi chợ phiên và khi làm lễ tế xà, không hiểu sao lần này lại còn dẫn quân đi. Nghi ngờ có biến nên thuộc hạ chủ động chặn đường chưa cho chúng qua. Hai bên giằng co cũng mười ngày nửa tháng rồi, thuộc hạ cũng gửi thư chiến báo về cho Vương Đô rồi ạ.”
“Làm tốt lắm.” Khung Dực gật đầu, đoạn đưa mắt nhìn lên lưng chừng núi. Cây cối trên Tuyết Nhạn cũng đang dần ngả màu vàng, tít trên đỉnh núi thì lúc nào cũng trắng xóa một màu của băng tuyết ngàn năm. Cũng vào thời gian này, chính là mùa thu năm ngoái, hắn và Ngọc Huyên đã đụng độ Hỏa Xà lần đầu tiên.
“Đợt này cứ chậm rãi mà đánh, không vội.” Khung Dực hướng ánh nhìn về phía bên kia chiến tuyến. Trong bốn sơn tộc hiện đang cư trú trên Tuyết Nhạn, Hồ tộc là mạnh nhất, kế đến là Kỉ Di. Hai tộc này ở cùng nhau bên sườn núi phía đông nên cũng thân thiết với nhau hơn, lại còn hay xua binh quấy phá biên cương và thị trấn. Tộc Nùng và Dao Tán tuy cũng ở cùng nhau bên sườn núi phía tây, thế nhưng lại phối hợp không nhịp nhàng như tộc Hồ và Kỉ Di. Cứ đà này, chiến sự càng kéo dài thì bên chịu tổn hại cũng là bọn họ.
“Thống lĩnh, hay là cố bắt cho được vài tên sơn tộc rồi tra hỏi xem sao? Ngoài việc chặn đường, chúng ta cũng cần phải biết bọn chúng hội quân với nhau để làm gì.” Kỷ Phong tay vẫn nắm chắc cung tên, bước lại gần Lâm Sách và Khung Dực rồi đề nghị.
“Cũng được, nhưng tính tình sơn tộc thì các ngươi cũng biết rồi đó. Bị bắt là chỉ có mỗi một việc chửi rủa hoặc im lặng thôi, cũng chẳng bao giờ khai ra cái gì. Cứ thử bắt vài tên lần này xem sao.” Khung Dực nói rồi ra hiệu cho nhóm cung thủ lui xuống, kị binh mang trường thương chuẩn bị dàn đội hình xông lên.
Địa hình này không lý tưởng lắm để kị binh phát huy tối đa sức mạnh, nhưng hắn cũng muốn thử ép sơn tộc thêm một chút xem bọn họ sẽ giở tiếp chiêu gì. Lúc đâu đã vào đấy, binh lính cũng đã hàng ngũ chỉnh tề chỉ còn chờ lệnh, Lâm Sách đến bên cạnh Khung Dực rồi nói nhỏ:
“Thống lĩnh, cả năm qua Hỏa Xà vẫn bặt vô âm tính. Thuộc hạ tìm nát sườn núi bên này rồi mà vẫn không thấy tăm hơi.”
“Ừm, ta cũng không ngạc nhiên.” Khung Dực nheo mắt nhìn lên đỉnh núi im lìm, ánh nắng chiều đã bắt đầu loang ra một màu cam đỏ, rọi xuống dốc núi phủ tuyết mịn như nhung. “Chắc chắn con rắn đó đã rúc vào hang ổ của nó bấy lâu nay rồi. Đó phải là nơi cực kỳ kín đáo, hoặc là nơi chúng ta không ngờ đến.”
“Thống lĩnh, vậy…”
“Chuyện đó tạm gác lại, đánh giặc cho xong trận này đã. Khi về chúng ta nói sau.” Khung Dực vỗ vai Lâm Sách rồi hất đầu về bên kia chiến tuyến, ra hiệu đã tới lúc xông lên.
“Rõ, thưa Thống lĩnh!”
Trận đánh đó cũng không mấy vất vả với Nhạn Quân. Sơn tộc cố gắng gượng được chừng ba bốn ngày thì đành rút quân, lùi sâu vào lòng núi. Khung Dực thấy thế cũng không truy sát mà chỉ hạ lệnh cho các tướng lĩnh vẫn đóng quân chốt chặn, phòng ngừa bọn chúng lại lẻn qua. Trong mấy ngày giằng co qua lại, Kỷ Phong đã bắt được một gã cung thủ người Nùng. Đúng như Khung Dực dự đoán, gã người Nùng này từ khi bị bắt đến khi bị tra khảo vẫn câm như hến.
Đến cuối ngày thứ tư, khi Khung Dực cùng các tướng soái chủ chốt chuẩn bị quay về doanh trại Khúc Băng sau khi sơn tộc rút sâu vào trong núi, gã người Nùng đang bị trói trong cũi chợt nhìn bọn họ rồi nói bằng thứ tiếng lơ lớ đặc trưng, sắc mặt cực kỳ u ám:
“Không còn nhiều thời gian đâu.”
Động tác lên ngựa của Khung Dực khựng lại. Hắn quay sang nhìn tên cung thủ nọ, mãi một lúc sau mới kéo dây cương giục ngựa rời đi.
Lúc về đến biệt viện, Khung Dực thấy Ngọc Huyên đã ngủ quên dưới gốc cây ngân hạnh từ bao giờ. Lẽ nào ngày ngày y đều ra đây ngồi đợi hắn quay về? Khung Dực thấy lòng nhói lên một cái, hắn vội vàng bước tới, gỡ chiếc áo choàng trên người ra đắp kín cho y, đoạn cùng ngồi xuống rồi khẽ kê vai vào cho người kia gác đầu lên.
Tán ngân hạnh lao xao, rì rào trong gió. Một vài chiếc lá vàng đầu tiên của mùa thu khẽ khàng đáp xuống sân.
Nhị vương tử có linh cảm chắc chắn rằng gã người Nùng đó đang nói đến Hỏa Xà. Thế nhưng lời nói đó cũng ứng nghiệm với tình cảnh của hắn và Ngọc Huyên.
Nếu hắn đoán không sai, tới cuối mùa đông năm nay cả hắn và Ngọc Huyên đều sẽ bị triệu hồi về kinh.
Tầm bảy ngày sau đó, việc chuẩn bị hậu cần cho đoàn quân chinh tây đã hoàn tất. Vào một buổi sáng mùa thu, trời rất cao và rất trong, Khung Dực, Lâm Sách, Lê Quảng Mục và Kỷ Phong làm lễ tiễn quân rồi cùng cưỡi ngựa đến tận cùng mảnh rừng trên sườn tây Tuyết Nhạn, đi cùng đoàn quân chinh tây một đoạn cuối cùng. Vượt qua mảnh rừng này là ra khỏi lãnh thổ Đại Thương. Phía bên kia chính là đầm lầy với bao hiểm nguy cùng những điều chưa biết rõ đang chờ đợi họ.
Một điều ngẫu nhiên là đoàn quân chinh tây này đa phần đều bao gồm những thiếu niên tuổi đời còn rất trẻ từ Nhạn Quân lẫn đội dân binh của dải Chinh Sa, sức sống bừng bừng. Vì nhiều lý do khác nhau mà họ xung phong dấn thân cất bước trên con đường viễn chinh vạn dặm, thế nhưng tất cả đều có chung một niềm tin hừng hực của tuổi trẻ.
Bọn họ sẽ chinh phục được vùng đất mới, vinh hiển quay về.
“Thống lĩnh! Chúng thuộc hạ đi đây!”
“Các vị tướng quân bảo trọng nhé!”
“Này, các ngươi ở lại nhớ chăm chỉ luyện tập đấy, khi ta về lại đấu một trận phân cao thấp, thế nào? Hahahaha!”
Khung Dực xuống ngựa, bước theo vài bước rồi vẫy tay với lũ nhóc. Hắn không còn vẻ nghiêm nghị đạo mạo của Thống lĩnh Nhạn Quân nữa, hắn giờ đây trông như một người huynh trưởng bình thường, nén xuống đau lòng mà tiễn huynh đệ lên đường. Từng người từng người thiếu niên bắt đầu bước khỏi khu rừng vàng rực của Tuyết Nhạn mà đặt chân vào một vùng đất cỏ lau cao ngút ngàn, đất xốp mềm như cát chảy. Đứng từ trên sườn núi nhìn theo chỉ còn thấy thấp thoáng những bóng người trên lưng ngựa, trường thương sáng loáng gác trên vai.
Lăng Kỳ Anh là người cuối cùng đứng lại.
Bộp. Khung Dực vứt cho Kỳ Anh cây trường thương của mình, hoàn toàn không nói gì thêm. Kỳ Anh sung sướng đón lấy, đoạn nhìn Khung Dực cười toe.
“Ngài không tiếc thật à, Thống lĩnh?”
“Hừ, phí lời!” Khung Dực nhảy lên Tiểu Hổ rời đi trước. “Nhớ rõ mệnh lệnh của ta đấy, Kỳ Anh.”
Một chốc sau, Khung Dực phi ngựa đi được một đoạn chừng nửa dặm thì đã thấy Kỷ Phong đuổi kịp, cùng mình song song đi về doanh trại.
“Nhanh vậy à?” Khung Dực ý nhị hỏi.
Kỷ Phong không đáp, chỉ ngoái lại nhìn miền đất cỏ lau xa tít tắp đằng sau, bóng hình người thiếu niên cũng đã dần mờ nhạt.
Hơi thở ấm nóng của hắn dường như vẫn còn vấn vít bên môi, tuy nhiên lời hắn nói ra lại như móc câu cào nát trái tim, để lại một vết thương sâu hoắm.
Kỷ đại ca, quên ta đi.
Khi mùa thu càng đi về cuối, lúa mì, lúa mạch cũng chín vàng, ruộng ngô xanh mướt đầy những bắp ngô căng mẩy. Khu rừng trên sườn dốc phía tây và gốc ngân hạnh trước biệt viện của Khung Dực thay lá vàng rực rỡ, lao xao lấp lánh trong gió thu mát mẻ. Về đêm, bầu trời cũng trong vắt, khí lạnh tràn vào doanh trại khiến người ngồi bên đống lửa như cũng muốn nhích lại gần nhau hơn, chia nhau vò rượu, cùng nhau sưởi ấm.
Thế mà chén rượu vẫn cứ phai hương nhạt nhòa.
Từ khi đoàn quân chinh tây đi rồi, không khí trong doanh trại cũng trầm lắng ít nhiều. Những lần Ngọc Huyên xuống ruộng lúa thăm mùa thu hoạch rồi lại ghé thị trấn dạo quanh, cũng vẫn khu chợ đó, những gian hàng đó, những con phố đó, thế nhưng tiếng nói cười, tiếng trêu hoa ghẹo nguyệt của những dân binh thiếu niên đã không còn nữa. Về đến biệt viện, y lại thấy gương mặt phảng phất vẻ nặng nề, buồn bã của Khung Dực, lòng y lại cuộn lên từng cơn đau nhói.
Trong một bữa cơm chiều nọ, Ngọc Huyên múc ra chén canh súp củ cải hầm cho Khung Dực, đoạn khẽ hỏi:
“Ngày mai… anh có thời gian rảnh không?”
Khung Dực nãy giờ chỉ lấy đũa gẩy gẩy miếng cơm trong chén, lúc này mới như sực tỉnh mà ngẩng lên nhìn Ngọc Huyên:
“Em nói gì cơ?”
Ngọc Huyên cười dịu dàng, gắp vào chén của Khung Dực một ít thịt xào nấm rồi nói:
“Nếu anh có thời gian… anh đưa em lên núi ngắm lá vàng được không? Em thấy mùa thu đang rất đẹp, muộn vài hôm nữa có khi lá lại bắt đầu rụng rồi.”
“Em… muốn đi chơi à?” Khung Dực ngẩn ra một tí rồi lập tức vui vẻ hẳn ra. “Được chứ! Ta đưa em đi!”
Nói xong lời ấy Nhị vương tử mới nhận ra, trước giờ Ngọc Huyên của hắn chưa từng chủ động đòi đi đâu du ngoạn cả. Lần này có lẽ y chỉ muốn tìm cớ để đưa hắn ra ngoài cho khuây khỏa mà thôi. Từ sau khi Kỳ Anh đi, Kỷ Phong tuy cố tỏ ra bình thường nhưng Khung Dực vẫn biết hắn buồn. Hàng đêm góc nhóm lửa ở phía sau doanh trại, nơi mà nhóm tướng sĩ hay ngồi trò chuyện, uống rượu ăn khuya sau ca trực, lúc nào cũng có thể bắt gặp bóng dáng Kỷ Phong ngồi một mình. Thỉnh thoảng Khung Dực sẽ đến ngồi cùng y, có khi đến tận nửa đêm, hai người một chủ nhân một thân vệ cứ thế mà ngồi chẳng nói một câu. Cũng có khi, Kỷ Phong hơi ngà ngà say sẽ bật ra một câu chửi đổng:
“Mẹ nó! Nói thì dễ lắm!”
Tâm sự nặng nề của Khung Dực còn đến từ một việc khác. Càng gần đến mùa đông, việc bị triệu hồi về kinh càng không thể trốn tránh, thế nhưng hắn và Lâm Sách vẫn chưa tìm thấy tung tích Hỏa Xà. Một chút manh mối về nơi nó đang ẩn náu cũng chẳng có.
“Anh đừng nghĩ nữa, ăn đi mà.”
Ngọc Huyên đã chuyển qua ngồi cạnh hắn từ bao giờ, trên tay là một đũa thịt xào nấm đang đưa lên tận bên môi. Khung Dực bừng tỉnh đầy áy náy, vội há miệng tợp hết đũa thức ăn rồi vòng tay kéo Ngọc Huyên lên ngồi trên đùi mình, giấu mặt vào suối tóc đen huyền của y.
“Anh làm gì vậy haha, vậy sao mà ăn?” Ngọc Huyên ngọ nguậy trên đùi hắn.
“Đừng ngọ nguậy nữa, nếu không mới thật sự ăn không xong bữa cơm này đấy.” Khung Dực giả vờ nghiêm giọng cảnh cáo, quả nhiên người kia lập tức ngoan ngoãn, ấm ức ngồi im.
Ngày hôm sau, Khung Dực đưa Ngọc Huyên đi lên sườn núi phía tây nơi có khu rừng ngân hạnh đang thay lá vàng rực rỡ. Để ít gây động tĩnh, Khung Dực chỉ dẫn theo Kỷ Phong cùng mười thân vệ tinh nhuệ để họ làm trinh sát và bảo vệ vòng ngoài. Khung Dực và Ngọc Huyên thì cưỡi Tiểu Hổ và Tiểu Bạch mà đi ở vị trí giữa. Dạo này tộc Nùng và Dao Tán đã lùi vào sâu phía trong núi trong khi Nhạn Quân vẫn còn đóng quân đề phòng, thế nên đoạn sườn núi này rất an toàn.
Đến khu rừng đó, Ngọc Huyên và Khung Dực xuống ngựa tản bộ. Ánh nắng mùa thu chiếu xuyên qua những tán lá vàng rực, bên dưới mặt đất cũng trải một lớp thảm lá vàng mềm mại. Để ý toán hậu vệ và Kỷ Phong đang cách khá xa, Ngọc Huyên nhẹ nhàng đưa tay nắm lấy tay Khung Dực, hai bàn tay mười ngón đan xen.
“Cảm ơn anh.” Ngọc Huyên khẽ nghiêng đầu nhìn Nhị vương tử, môi nhoẻn miệng cười.
Hắn đưa tay người đó lên môi hôn nhẹ: “Ta phải cảm ơn em mới đúng.”
Hai người đi dạo mải miết một lúc dưới những tán ngân hạnh vàng, thỉnh thoảng có vài chiếc lá rơi nhè nhẹ, lãng đãng đáp xuống tóc, xuống vai. Đến bên một dòng suối nhỏ, Ngọc Huyên ngồi xuống đưa tay chạm vào làn nước trong vắt, chợt kinh ngạc kêu lên một tiếng. Hóa ra đây là ôn tuyền! Lúc nãy y mới nhìn kỹ, dòng suối róc rách này quả đúng là có làn khói mờ mờ bay lên.
“Đúng rồi, năm đó ta từng cùng đám quân binh tắm táp ở đây. Kể cũng lạ, không ai ngờ một ngọn núi mà trên đỉnh lúc nào cũng có tuyết phủ quanh năm lại có thể sinh ra ôn tuyền.” Khung Dực ngồi xuống cạnh Ngọc Huyên rồi nói.
“Em… muốn xuống tắm không?” Nhị vương tử len lén đưa mắt liếc nhìn người ta, đánh bạo hỏi một câu.
Ngọc Huyên có lẽ đang chìm trong một dòng suy nghĩ nào đó, ngẩn người mơ màng. Dường như y đã đọc qua về ôn tuyền, nhưng đã là chuyện của rất nhiều năm trước, từ khi còn ở Kinh Lạc cơ. Dọc theo những dòng ôn tuyền trên núi tuyết như thế này thường có…
“Ngọc Huyên! Em đang nghĩ gì vậy?”
Ngọc Huyên chợt đứng dậy rồi đi dọc theo dòng suối, vừa đi vừa nhìn xuống đất tìm quanh. Khung Dực không hiểu việc gì, thế nhưng cũng lập tức đi theo. Một lúc sau, Ngọc Huyên reo lên mừng rỡ:
“Em tìm thấy rồi! Thật sự là có dây ngân châm mọc trên đất cạnh bờ suối này, anh xem!”
Khung Dực tiến lại rồi nhìn vào lòng bàn tay Ngọc Huyên, trên đó là một nhánh cỏ màu xanh nhạt đang trổ những chùm hoa trắng nho nhỏ, cánh hoa tua tủa ánh bạc đâm ra như những bó ngân châm.
“Hử, sao em tìm thấy nó lại vui như vậy?” Nhị vương tử đời nào lại chú ý đến hoa cỏ, thế nhưng do thấy người kia vui như vậy nên hắn cũng tò mò.
“Anh không biết đó thôi, hoa này là một loại thảo dược rất quý, chuyên dùng để trị những vết thương lở loét, mưng mủ róc thịt, cả những vết bỏng nặng. Ở Kinh Lạc bọn em không có ôn tuyền, chỉ có thể tìm mua của các thương lái ngoại bang, giá vô cùng đắt. Ở đây dây ngân châm lại mọc dại thế này, tốt quá!” Ngọc Huyên cười híp cả mắt, sung sướng giảng giải, đoạn nâng niu đóa hoa như trân bảo trên tay.
Khung Dực chợt nghe lòng khẽ động một cái. Trị vết bỏng nặng à?
“Ừm… Vết bỏng nặng mấy cũng trị được sao?”
“Phải, trị được hết ạ. Hoa này giã nhuyễn rồi trộn thêm với dầu dừa, sáp ong cùng nhiều loại vật liệu khác, vết bỏng đến nát thịt nát da vẫn trị được.”
Nhị vương tử đằng hắng vài cái, đoạn đưa tay vén gọn mớ tóc lòa xòa trước trán của Ngọc Huyên rồi ôn tồn bảo:
“Vậy em hái đi, hái nhiều vào, mang về đưa cho lang y bào chế sẵn.”
Ngọc Huyên đang vui vẻ liền gật đầu rồi ngồi xuống hái, bất chợt bàn tay y đông cứng lại. Y ngẩng đầu lên nhìn Khung Dực, vừa dè dặt, vừa thắp lên hy vọng mà hỏi:
“Thuốc này… làm cho ai dùng vậy anh?”
Khung Dực im lặng không trả lời. Hắn chẳng muốn nói dối, lừa gạt y thêm nữa. Gần như ngay lập tức, Ngọc Huyên đã hiểu ra tất cả. Y nhào tới ôm chầm lấy Khung Dực, run rẩy, lắp bắp, nghẹn ngào.
“Không… không… anh ơi!”
Nhị vương tử vòng hai tay ôm lấy người kia, giọng nói bình thản đầm ấm không nghe ra một chút gì sợ hãi. Hắn chỉ đau lòng vì người kia của hắn đau lòng mà thôi.
“Không sao đâu, em đừng khóc. Sẽ không sao cả.”
Hình phạt dành cho tội kháng chỉ bất tuân của Đại Thương là chịu bảy lần gậy sắt đánh vào lưng. Cái khắc nghiệt ở đây là gậy sắt sẽ được nung trong lửa đỏ đến khi nóng rực, khi đánh vào cháy thịt cháy da, người chịu hình nếu không được trị thương kịp thời thì một là thương tật vĩnh viễn, hai là vết thương mưng mủ, nhiễm trùng mà chết.
Thân là Nhị vương tử kiêm Thống lĩnh Nhạn Quân, tri pháp phạm pháp, tội nặng gấp ba lần. Hắn sẽ phải chịu hai mươi mốt gậy.
Bên cạnh dòng ôn tuyền tỏa khói lững lờ, dưới những tán cây ngân hạnh vàng rực, Nhị vương tử cúi đầu vùi mặt vào mái tóc đen của người thương, ước ao sao mái tóc này chỉ dành cho hắn, và sẽ có một ngày hắn bình đạm ngồi cạnh bên y, nhìn mái tóc đó bạc dần theo tháng năm.
Dường như hôm đó cũng là ngày mùa thu đi về cuối.