Hắn kéo Ngụy Khiêm tới một góc vắng, biến hóa đa dạng, đồng thời dùng hai cách “lấy sự thật ra nói lý lẽ” và “hỏi thăm tổ tiên chửi cha mắng mẹ” quạt Ngụy Khiêm một trận, vai diễn thay đổi tự nhiên khéo léo, chả giống đang chiến đấu một mình tí nào.
Cuối cùng, Tam Béo thao thao bất tuyệt cho ra một kết luận hắn thấy là hợp lý: “Ngụy Khiêm, hôm nay anh phải cho mày biết một phát hiện lớn của giới khoa học – mày chính là một thằng siêu ngu!”
Ngụy Khiêm bị “khoa học” chặt chẽ chứng minh là siêu ngu không thể đối đáp, đành phải bấm bụng nhịn.
Ba người lúc đến đều ngồi ghế cứng, lúc về mua giường nằm hoang phí một phen.
Tiếc thay giường nằm cũng chẳng thoải mái hơn ghế cứng chỗ nào, bởi đồng chí Tam Béo ngáy muốn long trời lở đất, mấy lần xém làm xe lửa lệch khỏi ray, mà cái tên mập chết toi này còn không hề tự biết, ngủ cực sớm dậy cực muộn.
Mấy hành khách bên cạnh coi hắn thành kẻ địch giai cấp, cuối cùng mọi người không hẹn mà cùng nằm úp lên giường, bịt tai vùi đầu vào gối, dùng tư thế y hệt trốn bom để qua thời gian nghỉ ngơi dài đằng đẵng.
Ngụy Khiêm không ngủ được, liền nằm tính toán tiền của trong nhà, chuyến này gã cơ bản không chi tiêu gì, ngược lại còn gửi tiền về, thêm trước kia tích góp được chút đỉnh, giờ đây đã có tổng cộng ba vạn đồng.
Nhà họ bốn người bình quân một tháng năm sáu trăm đồng là có thể sống cực kỳ dư dả, sau một năm, chỉ cần không có chuyện bất ngờ, học phí và sinh hoạt phí cộng lại sẽ không quá sáu ngàn, nếu gã tìm được chỗ làm trong các ngày lễ và kỳ nghỉ, thì còn có thể thêm khoảng một ngàn để nuôi mẹ Mặt Rỗ.
Tạm thời thở phào được rồi.
Ngụy Khiêm đang thầm suy tính kế sinh nhai thì giường trên đột nhiên động nhẹ, sau đó một cái đầu be bé ló ra giữa cảnh tối lửa tắt đèn, treo lơ lửng nhìn ngược xuống gã.
Ngụy Khiêm vô ý ngẩng lên, lập tức giật nảy mình vì đôi mắt sáng rực trên cái đầu kia, bèn quát: “Ngụy Chi Viễn, giả ma cái con khỉ, ngủ đi!”
Ngụy Chi Viễn bị quát mà chẳng buồn chút nào, còn rụt đầu lại giống như rất vui vẻ vậy.
Ngụy Khiêm thu mạch suy nghĩ lại, mấy ngày nay tinh thần vẫn căng thẳng, sức lực hơi thiếu, thế nên sau khi quen với tạp âm, dẫu bên tai là tiếng ngáy o o khiến trời đất hoảng sợ quỷ thần bật khóc, gã cũng dần hơi buồn ngủ, gã đang sắp thiếp đi thì cái đầu ở giường trên lại lén lút chui ra y như phường trộm cắp.
Ngụy Khiêm tức giận nhổm dậy, thò đầu lên giường trên: “Mày ăn no rửng mỡ hả? Tự dưng nhìn tao hoài làm gì?”
Ngụy Chi Viễn lập tức ngoan ngoãn nằm xuống.
Ngụy Khiêm tưởng thằng bé lần đầu ngủ giường nằm thấy mới mẻ, liền thuận tay kéo chăn giúp, giọng dịu hơn: “Không ngủ được thì bịt tai lại, vẫn không ngủ được thì đạp cha mập đó một phát.”
Ngụy Chi Viễn đáp khẽ một tiếng, vẫn nhìn gã chòng chọc.
Ngụy Khiêm bò xuống, bắt chước người khác rúc đầu vào dưới gối nhắm mắt lại.
Một lúc lâu, giữa bóng đêm Ngụy Khiêm bỗng nhiên hiểu rõ, không phải Ngụy Chi Viễn đang quậy, nó cứ thò đầu ra hoài, là muốn xem mình còn ở đây không.
Khiến thằng nhóc này phải sợ hãi rồi, Ngụy Khiêm nghĩ thầm, quả không nên dẫn nó theo.
Hai anh em về đến nhà, đương nhiên bị bà Tống kêu réo và hỏi nọ hỏi kia, Ngụy Chi Viễn giả ngu không lên tiếng, bà Tống liền khạc lửa đạn sang Ngụy Khiêm: “Mày kiếm đâu ra lắm tiền như vậy? Mày đã đi đâu? Làm việc gì xấu rồi đúng không? Mày nói đi!”
Bà lão y như một con nhặng cỡ bự, không ngừng kêu vo ve ngay tai Ngụy Khiêm, gã hết nhịn nổi đành bỏ ra ngoài, gửi hai vạn rưỡi còn lại vào ngân hàng, không cho bà nội biết, tránh để bà già tiếp tục om sòm.
Đi một vòng quay về thấy bà Tống vẫn nghiêm mặt, chẳng mảy may muốn tha cho gã, Ngụy Khiêm rốt cuộc khuất phục, bực bội nói: “Tôi đi bán máu, được chưa!”
Bà Tống líu lưỡi: “Bán… Bán cái gì?”
Thái độ của Ngụy Khiêm càng tồi tệ hơn: “Bán hai cân máu, một quả thận, bà hỏi đủ chưa, để tôi yên một lúc được không?”
Nghe là biết nhảm nhí, song bà Tống không thấy thế, bà lão chưa được học hành một ngày nào, chỉ nghe nói bán máu, nhưng không biết máu người nào phải quả dưa quả táo để mà dùng cân, lại nhìn khuôn mặt nhợt nhạt gầy gò của Ngụy Khiêm, tức khắc liền nghĩ ngợi lung tung mà tin sái cổ.
Ngụy Khiêm vốn muốn để bà già bớt làm phiền mình, đâu ngờ tạo thành hậu quả như vậy.
Bà Tống dùng chất giọng vang khắp làng, khóc y như tuồng, rõ là mở đầu của màn giậm chân đấm ngực toan treo cổ.
Tiểu Bảo và Tiểu Viễn liếc nhìn nhau, sau đó cùng ném ánh mắt bối rối về hướng anh hai, nét mặt anh hai sững ra tới nửa phút, Tiểu Viễn thấy khóe mắt anh hơi giật giật.
Ngụy Khiêm ngồi xổm xuống cạnh bà Tống, cẩn thận thò tay chọc bà lão một cái như chuẩn bị chạm công tắc điện, lại nhanh chóng rụt về, ho khan nói: “Này… Khụ, bà đừng khóc nữa.”
Nước mũi nước mắt chèm nhẹp trên mặt bà Tống: “Tao thật bất lực! Tao chỉ là một bà già nhà quê… Tao chẳng biết cái gì! Tao chỉ giỏi gây phiền phức! Để một đứa trẻ phải đi bán máu bán thận, con người làm được ư? Sao tao còn chưa chết chứ… Tao sống làm gì…”
Ngụy Khiêm tuy không đến mức luống cuống chân tay nhưng cũng vô kế khả thi, gã im lặng nghe bà già khóc bù lu bù loa, cảm thấy dở cười dở mếu, nghĩ bụng may mà chưa bảo mình đi đánh hắc quyền, nếu không chắc bà già này phải sợ chết tươi.
Mà ngoài cảm giác dở cười dở mếu vớ vẩn này, gã lại cảm thấy một chút an ủi lạ lùng.
Câu “để một đứa trẻ phải đi bán máu bán thận” đâm thẳng vào tim gã, từ nhỏ đến lớn, rất ít ai dùng “đứa trẻ” để gọi gã.
Ngụy Khiêm thấy, hai chữ “đứa trẻ” không hề là danh từ trung tính dùng để tả một người trẻ tuổi – gã cho rằng danh từ trung tính nên là “thằng nhãi” – mà cách xưng hô “đứa trẻ” này, dường như thay mặt cho những chăm sóc, khoan dung và cưng chiều đến từ người lớn hoặc là bề trên.
… Đó là những điều gã chưa bao giờ được nhận.
Ngụy Khiêm hơi xấu hổ, chờ bà lão khóc hơi yếu đi, gã mới lấy một cuộn giấy vệ sinh dưới bàn ăn đưa ra: “Ôi đừng khóc nữa, lúc nãy tôi nói đùa, lừa bà thôi.”
Bà Tống thút thít chửi bới: “Thằng ôn dịch! Mày rốt cuộc đã làm gì?”
Ngụy Khiêm nói dối không cần nháp: “Một ông bạn có đường làm ăn, kéo tôi nhập bọn, chuyển ít hàng đến phương Nam, chạy mấy chuyến xe tải…”
Bà Tống: “Đừng bố láo, sao mày không đái một bãi ra mà soi sắc mặt mình xem?”
“Tôi…” Ngụy Khiêm không nhịn được buồn cười, “Bà có biết mỗi ngày bọn tôi phải chạy trên đường bao nhiêu lâu không? Xe tải chạy một ngày mười mấy tiếng, ăn ngủ ngay trên xe, gió lùa nắng chiếu, sắc mặt ai mà đẹp cho nổi? Tôi đâu phải thần tiên!”
Bà Tống vẫn nhìn gã với vẻ nghi ngờ.
“Thật đấy.” Ngụy Khiêm bịa như thật, “Ông Tam cũng đi, không tin bà hỏi ổng xem, bọn tôi chở hàng từ nhà xưởng ở Quảng Đông đến phương Bắc bán lại gấp mấy lần, cho tôi mấy ngàn phí dịch vụ thì bõ bèn gì?”
Dù sao Tam Béo cũng sẽ lấp liếm giúp gã.
Bà Tống lúc này mới nửa tin nửa ngờ, lát sau nói: “Thế… thế mày vén áo lên cho tao xem, người ta nói ai bán thận đều có một lỗ sau lưng.”
Dứt lời liền muốn tự mình cởi áo Ngụy Khiêm.
Ngụy Khiêm nhảy dựng lên, lui một bước dài: “Bà làm gì thế? Nam nữ thụ thụ bất thân! Bà già rồi đừng làm trò mất mặt được không?”
Bà Tống nghe gã càng nói càng mất dạy, thuận tay cuộn một quyển sách đập Ngụy Khiêm túi bụi: “Này thì đặt chuyện, này thì nói láo…”
Bà lão đập một trận rồi rốt cuộc quên luôn chuyện lột đồ Ngụy Khiêm, xem như qua cửa.
Kỳ nghỉ hè qua đi rất nhanh, con bé Tống Tiểu Bảo không nên thân kia lại bắt đầu nhờ cậy khắp nơi làm bài tập như điên, Tam Béo thường xuyên sang lượn một vòng, bà Tống ban ngày đi buôn bán, ba anh em này mỗi đứa chiếm một góc im lặng học hành, giống như căn nhà xưa nay luôn om sòm đã biến thành phòng tự học, tràn ngập bầu không khí học thuật.
Đôi khi Tam Béo ngồi lâu còn cảm thấy rất khó chịu.
Lúc Ngụy Khiêm thay áo thun trắng sạch sẽ, tóc chải gọn gàng, hoàn toàn tập trung, vẻ u ám ở vùng chân mày sẽ tiêu tan hết, trông chẳng khác nào một học sinh trung học bình thường.
Tháng Chín, gã rốt cuộc quay về ngôi trường xa cách hơn ba năm, một lần nữa bắt đầu cuộc sống trung học lắm luật lệ mà chẳng có gì để khen.
Mỗi sáng, đầu tiên gã đạp xe chở bà Tống đến chỗ bán hàng, sau đó vớt một bắp ngô và một quả trứng trong nồi, mang đến trường ăn, một ngày tám tiết bận rộn học xong, gã nhân thời gian cho bữa tối nhanh chóng chạy từ trường đến chở bà Tống về, lại lấy đại chút thức ăn ở nhà rồi chạy về trường tự học.
Có một người lớn chăm sóc gia đình, Ngụy Khiêm dỡ được quá nửa gánh nặng, trong lòng gã rất biết ơn bà nội.
Thật ra Ngụy Khiêm chưa học xong lớp 10, nhưng để tiết kiệm thời gian, gã vào thẳng lớp 11 do cô Lý chủ nhiệm, dù nghỉ hè chăm chỉ học hành nhưng cuộc thi tháng đầu tiên vẫn không lý tưởng, chỉ miễn cưỡng chen vào hàng trung bình yếu.
Nhưng Ngụy Khiêm không cảm thấy có gì đáng lo, chưa đội sổ chứng minh rằng gã vẫn theo kịp, đến cuộc thi giữa kỳ, gã đã từ trung bình yếu nhảy lên khá giỏi.
Gã chuyên tâm học hành như lúc làm bảo kê cho Nhạc ca, hơn nữa thành tích rõ rệt – “khắc khổ” chẳng phải là thức khuya dậy sớm, đọc sách nhiều hơn, làm hơn người khác vài đề sao?
Với Ngụy Khiêm mà nói thì cái sự “khổ” này căn bản chẳng nhằm nhò gì.
Đến khi thi cuối kỳ, Ngụy Khiêm từ khá giỏi hoàn toàn nhảy lên top đầu, thành một học sinh xuất sắc hiền lành kiệm lời lại còn đẹp trai… Mới hơn nửa năm trước, đây còn là một thân phận không thể tưởng tượng.
Tiếc rằng ở nhà gã là người đứng đầu nói một không hai, bà Tống mỗi ngày buôn bán và giúp việc, đi sớm về khuya bận tối mày tối mặt, hai đứa nhãi kia cũng chẳng dám lắm miệng hỏi thành tích của gã, Ngụy Khiêm lại cảm thấy tự nói thì có vẻ khoe khoang quá, làm mất sự uy nghiêm của người chủ gia đình.
Nhưng vụ này thật sự làm gã bứt rứt muốn chết.
Kìm nén mãi đến Tết, bà Tống lì xì cho mấy anh em, làm sủi cảo xong xuôi, trên bàn cơm mới nhớ hỏi Ngụy Khiêm: “Thằng hai, mày học hành sao rồi? Thi được hạng mấy?”
Ngụy Khiêm mất tự nhiên cầm khoản tiền lì xì đầu tiên từ thuở lọt lòng, thuận miệng nói: “Bà lắm chuyện quá.”
Bà Tống vui mừng cười mắng gã: “Thằng oắt con, nói đàng hoàng coi!”
Ngụy Khiêm bèn làm bộ hời hợt trả lời thành tích và xếp hạng, giống như toàn là mấy việc nhỏ nhặt chẳng đáng kể, do bà lão khăng khăng muốn hỏi, mới miễn cưỡng nói một tiếng.
Bà Tống đang đảo sủi cảo trong nồi nước sôi đột nhiên khựng tay lại, một lúc lâu mới dè dặt hỏi: “Thế… đủ để thi vào đại học chứ?”
Học sinh trường trung học trọng điểm chưa bao giờ coi “thi vào đại học” là gì, mục tiêu của họ đều là cố hết sức thi vào “đại học tốt nhất”.
Nhưng bà Tống không hay tiếp xúc với tầng lớp trí thức, học sinh và thành phần trí thức bình thường tới ăn đều được bà hầu hạ y như một giai cấp khác, chưa bao giờ nghĩ nhà mình cũng sẽ có một người… “giai cấp” đó.
Trong đầu bà lão thì “vào đại học” là một giấc mơ hèn mọn mà xa vời.
Ngụy Khiêm hờ hững “ừm” một tiếng.
Bà Tống nội tâm sôi trào, kích động không thể diễn tả, mãi đến rất nhiều ngày sau, Ngụy Khiêm sắp khai trường, đạp xe đi đón bà lão ở chỗ làm theo giờ buổi chiều, còn nghe thấy bà đang khoa tay múa chân khoe với người làm cùng: “Thằng cháu lớn của tôi học ở trung học trọng điểm, giáo viên đều nói về sau thi đại học không có vấn đề gì hết.”
Ngụy Khiêm từ đằng xa nghe thấy thế, lẩm bẩm một câu: “Bà khọm già giỏi dát vàng lên mặt thật, ai là cháu bà?”
Tuy vậy lúc đạp xe đến gã vẫn điềm nhiên nói: “Bà nội, đi thôi.”
Cuối tất cả khó khăn và gánh nặng, đều là năm tháng kiếp này như nước chảy mây bay.
Bạn có thể hai bàn tay trắng, chỉ cần tinh thần vẫn còn đó – Trích từ bài diễn thuyết tốt nghiệp của hiệu trưởng trường Đại học Giao thông Thượng Hải năm 2013.