Lữ Cánh Nam nói: “Đại nhân, ngài cho rằng việc tấm bản đồ này đột nhiên xuất hiện liệu có liên quan gì đến chuyện Merkin bất ngờ trở về nước hay không?”
Lạt ma Á La nói: “Ý của con là?”
Lữ Cánh Nam nói: “Trong báo cáo của nhóm nghiên cứu gửi đến, trong tay bọn họ là tấm bản đồ gốc, một tấm bản đồ hàng hải được dân Tạng cổ vẽ trên da sói từ trên một ngàn năm trước. Theo phán đoán của con, Merkin không dám mạo hiểm mang tấm bản đồ này xuất hiện, mà thông qua phương thức khác, trước tiên là chuyển bản đồ đến đất nước chúng ta, sau đó y mới tới, chỉ là y không ngờ được mình đã ủy thác sai người, cho nên…”
Lạt ma Á La vỗ tay nói: “Không sai được đâu! Tấm bản đồ này nhất định đã được lấy ra từ trong địa cung Ah Puch, chính là kẻ xuất hiện cuối cùng đó, mặc dù ta chỉ trông thấy bóng lưng hắn thôi, nhưng kẻ ấy thật vô cùng đáng sợ, toàn thân toát ra một thứ mùi vị tà quái khó hiểu. Hắn là người của tổ chức kia, một trong mười ba người, hắn là người ở trong lăng tẩm ấy lâu nhất, chắc chắn là đã phát hiện ra điểm gì mà chúng ta sơ suất bỏ qua. Đáng lẽ ta phải nghĩ ra lâu rồi mới phải, kẻ ấy tuyệt đối không thể là quân du kích, chẳng trách Merkin lại không xuất hiện, thì ra đã có kẻ khác đến địa cung Ah Puch rồi, mục đích chính là mở cánh cửa lần trước bọn chúng chưa mở ra được kia.”
Lữ Cánh Nam liền hỏi: “Có lẽ nào, tấm bản đồ ấy chính là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu hay sao?”
Lạt ma Á La đáp: “Chuyện này khó nói lắm, nhưng tin tức xuất hiện bất ngờ này sẽ lấp đầy rất nhiều điểm còn trống trong điều tra của chúng ta, nói thể nào thì nói, chúng ta cũng càng lúc càng đến gần mục tiêu rồi. Bây giờ thì ta đã hoàn toàn minh bạch. Chính kẻ kia đã đưa bản đồ cho Merkin, hoặc là bọn y cùng vùi đầu nghiên cứu, hơn nửa năm nay, sau khi đã hiểu được bản đồ nói gì, bọn y mới đến Trung Quốc. Thật đúng là lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, bọn y có năng lực mấy cũng chẳng thể nào ngờ nổi, tấm bản đồ ấy cuối cùng lại lọt vào tay chúng ta.”
Lữ Cánh Nam nói: “Dưới sự chỉ dẫn của đức Phật toàn năng, ánh sáng mãi mãi ở phía chúng ta.”
Lạt ma Á La nói: “Không thể do dự được nữa, nói với nhóm nghiên cứu, cần phải lập tức làm rõ xem rốt cuộc trên bản đồ ẩn chứa thông tin gì. Lần này chúng ta đã bị chúng bỏ lại sau lưng rồi, à, báo với các thành viên trong nhóm, cần chuẩn bị sẵn sàng để xuất phát bất cứ lúc nào.”
“Vâng!”
Cùng thời điểm đó, ở một nơi hoang vắng không bóng người, Merkin lớn tiếng chửi vào điện thoại: “Max! Mày là đồ ngu xuẩn! Tao phải lột da mày! Một chuyện bí mật như vậy, không ngờ lại để mày làm lộ ra hết cả! Tao thật không thể nào hiểu nổi tại sao mình lại cho một thằng ngu như mày đi theo lâu như thế nữa.
Trong ống nghe vang lên giọng sợ sệt của Max: “Chính… chính vì ẩn mật quá… bọn họ cũng làm rất cẩn thận, lúc đi trên đường luôn quan sát xem có ai theo dõi không. Không ngờ… không ngờ… lại khiến cảnh sát Trung Quốc chú ý đến… ông chủ…”
“Cạch,” Merkin dập mạnh ống nghe xuống. Nhìn điệu bộ y, như thể muốn đấm một phát cho nát bấy cái điện thoại ra vậy.
“Sao vậy hả?” Giọng Soares lành lạnh như băng cất lên trong một góc u ám.
Merkin hằn học nói: “Mất bản đồ rồi. Tấm bản đồ ấy đã rơi vào tay cảnh sát Trung Quốc. Cái thằng Max ấy đã theo tôi bao nhiêu năm, vậy mà một chút chuyện nhỏ vậy cũng không làm cho xong, thật đúng là ngu xuẩn hết chỗ nói. Còn cả đám lợn Trung Quốc được huấn luyện đặc biệt kia nữa chứ, đúng là một thằng ngu lớn dắt theo một lũ ngu nhỏ!”
Soares phì cười thành tiếng, thầm nhủ, “Không hiểu thằng cha Merkin này đang nói đám thuộc hạ hay nói chính hắn nữa.” Chỉ nghe y chậm rãi nói: “Không can hệ gì, chúng ta đã nghiên cứu đi nghiên cứu lại tấm bản đồ đó bao nhiêu lần rồi, không có thì cũng vẫn tìm được thôi.”
Merkin nói: “Tôi không lo chuyện này, vấn đề là, tấm bản đồ đó sẽ nhanh chóng rơi vào tay bọn người ở Tây Tạng kia ấy chứ.”
Soares bật cười: “Thế thì sao chứ? Bọn chúng cũng phải làm rõ được ý nghĩa của tấm bản đồ trước đã, chỉ sợ cũng phải mất một thời gian, mà trong khoảng thời gian đó, chúng ta đã sớm lấy được thứ mình cần, nếu đúng là có thứ ấy. Sau đó, chúng ta sẽ có thể… trực tiếp đến Bạc Ba La thần miếu rồi!”
Merkin vẫn lo lắng nói: “Vấn đề là, số lượng thông tin mà chúng nắm giữ trong tay lớn hơn của chúng ta rất nhiều. Nói ngay lần này thôi, nếu không phải tôi nhận được tin tức, biết chuyện Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia đã được người Tạng cổ mang đến châu Mỹ, e là đến giờ chúng ta cũng không thể nào lý giải được, tại sao trong địa cung người Maya lại xuất hiện bản đồ do người Tây Tạng vẽ ra nữa.”
Soares trầm ngâm nói: “Ừm, anh nói cũng phải, xem ra phán đoán đầu tiên của chúng ta đã sai lầm, đám người đó nghiên cứu Bạc Ba La thần miếu không chỉ mới một hai năm, mà đã nghiên cứu cả một thời gian dài rồi. Nói không chừng, chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi chúng đã dịch được thông tin trên tấm bản đồ ấy cũng nên. Có điều như vậy đâu có sao, đằng nào cũng có mấy nơi khác nhau cơ mà, chúng ta cứ đánh cược một phen đi, xem bên nào tìm được chìa khóa cuối cùng dẫn đến Bạc Ba La thần miếu trước.” Y nhổm dậy hít một hơi dài, cái bóng màu xám trong góc tối toát lên vẻ lạnh lùng cô độc, chỉ nghe y chầm chậm nói: “Ben, thời gian nghiên cứu về Tây Tạng của anh dài hơn tôi, anh cho rằng chỗ nào là nơi có khả năng cất giấu bản đồ nhất?”
Khóe miệng Merkin nhếch lên, lộ ra một nụ cười: “Mặc Thoát!” đồng thời lấy di động ra báo cho Max, “Gọi cho bọn ngu xuẩn đã được huấn luyện kia đi, chúng ta xuất phát!”
Lần này Lữ Cánh Nam không giấu các thành viên trong nhóm nữa, tin tức mau chóng thông qua con đường truyền miệng đến tai từng người một. Hai ngày sau, khi Trác Mộc Cường Ba nghe được tin tức từ chỗ Nhạc Dương, liền lập tức báo ngay cho giáo sư Phương Tân vẫn đang vùi đầu nghiên cứu về địa cung của người Maya. Đẩy cánh cửa phòng giáo sư, Trác Mộc Cường Ba cao giọng nói: “Thầy giáo, có tin tức mới, có thể chúng ta sắp xuất phát đến nơi rồi!”
Gian phòng hết sức bừa bộn, giáo sư đang ngồi trước màn hình máy tính, nhìn lướt qua đâu đâu cũng thấy các tài liệu về văn minh Maya. Ông ngoảnh đầu, chỉnh lại gọng kính trên mũi, những nếp nhăn trên trán và mái tóc điểm bạc khiến Trác Mộc Cường Ba không khỏi bồi hồi xúc động. Gã hiểu được, vì gã, người thầy này đã bỏ ra quá nhiều công sức, tình nghĩa giữa gã và giáo sư Phương Tân, một chữ “cảm kích” thôi thật không thể biểu đạt nổi.
Giáo sư Phương Tân gỡ chiếc kính xuống, hỏi: “Ừm, lần này lại có tin gì thế?”
Trác Mộc Cường Ba không giấu nổi niềm hân hoan: “Nghe nói, là có đầu mối mới rồi, hình như là một tấm bản đồ hay gì đó thì phải.”
“Ồ!” Giáo sư Phương Tân trầm tư nói, “Cường Ba à, khoảng thời gian này, tôi có trao đổi kinh nghiệm với mấy người bên nhóm nghiên cứu, đồng thời cũng cùng một số người bạn nghiên cứu thêm, chúng tôi phát hiện ra, cái nơi gọi là Bạc Ba La thần miếu này, thật không hề đơn giản như chúng ta hằng tưởng tượng đâu.”
Trác Mộc Cường Ba ngồi xuống trước bàn, nhìn gương mặt già nua đi rõ rết của ông, nói: “Thầy giáo, thầy mệt mỏi quá rồi, cứ như vậy sức khỏe không trụ nổi đâu, mà cũng làm tôi thấy áy náy trong lòng nữa.”
Giáo sư Phương Tân dụi dụi dử ở khóe mắt: “Cũng hết cách rồi, Cường Ba ạ, cậu vẫn chưa nắm được toàn bộ biến hóa của sự kiện này à?” Ông ngoảnh đầu lại nghiêm túc nói, “Ngải Lực Khắc đi rồi, ông ta không chỉ là giáo quan huấn luyện chúng ta, mà còn là thành phần cốt cán cùng cả nhóm lên đường; anh ta đi khỏi đây, chứng tỏ cấp trên đã truyền đạt xuống đây một tín hiệu rồi. Thời gian kéo dài quá lâu, sự nhẫn nại của cấp trên cũng có hạn thôi, thứ họ muốn nhìn thấy không phải là sự trưởng thành của mấy người chúng ta đây, mà là một thứ có thể khiến người ta phấn chấn thực sự, thế nhưng cho đến tận bây giờ, chúng ta vẫn cứ mãi giậm chân tại chỗ. Vì vậy, trước mắt là nguy khốn trùng trùng, phải tận dụng hết mọi thời gian, nhân lúc còn có thể lợi dụng được nguồn tư liệu quý giá này, chúng ta cần tranh thủ trao đổi nhiều hơn với đám chuyên gia kia, hòng có được những tài liệu muốn có. Những thứ ấy, ở nơi khác chúng ta không thể nào tra ra được đâu.”
Trác Mộc Cường Ba đặt tay lên vai giáo sư, gật đầu nói: “Tôi biết, tôi biết, kể từ khi bắt đầu tìm kiếm Tử Kỳ Lân, toàn bộ sự việc đều trở nên phức tạp, hơn nữa lại còn càng ngày càng phức tạp hơn. Thế nhưng, chúng ta… vẫn đề đang sống khỏe mạnh mà, chẳng phải vậy sao? Vả lại, chúng ta cũng đang ngày một tiến gần mục tiêu hơn rồi còn gì.” Trải qua một đợt huấn luyện địa ngục, khó khăn lắm mới thoát ra được, cuối cùng cũng coi như có một bước tiến mới, tâm trạng Trác Mộc Cường Ba đương nhiên là hết sức tốt.
Giáo sư Phương Tân thầm tán thưởng trong lòng: “Kiên nhẫn bền bỉ, đây mới chính là Cường Ba mà tôi biết chứ.” Ông mở máy tính ra nói: “Trước mắt, đối với việc nghiên cứu văn hóa Maya, phía nhóm nghiên cứu không có tiến triển gì lớn lắm, dù sao họ cũng là chuyên gia về Tạng học chứ không phải chuyên gia về văn minh Maya. Bạn bè tôi giúp liên hệ với một số người chuyên nghiên cứu văn hóa Maya, mỗi người đã nhận được một phần của băng video ấy, và đều gặp phải trở ngại khi xem những chữ khắc trong hầm mộ. Đầu tiên là văn tự ấy không phải là văn tự Maya truyền thống mà đã có một số biến đổi, tệ hơn nữa là, trong số ấy còn xuất hiện gần một trăm ký hiệu bọn họ chưa từng trông thấy bao giờ, vì vậy muốn giải dịch ra cũng có độ khó nhất định. Có điều, tư liệu hình ảnh tôi chụp lại ở chỗ thạch trận khổng lồ thì đã được dịch ra một phần rồi, cậu xem này.”
Trác Mộc Cường Ba nhận lấy phần tư liệu, chỉ thấy trên các ký hiệu chi chít những đoạn chú thích, phần văn bản dịch ra ở dưới là: vầng dương đỏ như máu chìm xuống trời Tây, bên trên cánh rừng sâu xanh thẳm như mực là những áng mây xám xịt, tộc trưởng đã sắp qua đời, ông hạ lệnh: “Xây cho ta một căn phòng bằng đá dưới đất sâu, nhỏ thôi nhưng phải kiên cố, mặc cho ta chiếc áo lớn tượng trưng cho vương quyền, rồi đặt ta vào đó, giống như ta vẫn sống, chẳng qua chỉ là ngủ thiếp một giấc dài mà thôi. Bên cạnh hãy đặt chiếc bát đá, bàn ăn và con dao bằng đá lửa, rồi hãy đóng hầm mộ lại theo đúng tập tục của chúng ta, tiếp tục đi con đường của các người, mong rằng các người sẽ tìm thấy Thánh thành trong năm katun tới đây. Ta sẽ mãi ở trên bầu trời quan sát các người, vĩnh viễn chúc phúc cho các người.”
Tất cả đều được làm theo mệnh lệnh của ông. Người ta đào một cái hố lớn, xây một căn nhà đá mái tròn dưới đó, bên ngoài nhà đá dựng một tấm bảng đá trên khắc hình chim quyên xanh và rất nhiều động vật khác, từ chỗ thấp nhất lên đỉnh, xây thành ba bậc bình đài, mỗi bậc đều có cầu thang xoáy xung quanh. Ở giữa gian nhà đá, những bức tường trắng và cây cột được điêu khắc tinh tế tỉ mỉ tạo thành một gian phòng đá kín, trên tường có vẽ những sự tích vĩ đại của tộc trưởng, người đã lãnh đạo bộ tộc của mình tìm kiếm quê hương mới. Chính nhờ sự anh minh và dũng cảm của ông, bộ tộc họ mới được sinh sôi phát triển. Trong gian phòng đá này, mọi người trong bộ tộc y theo mệnh lệnh cuối cùng của người, mặc cho ông chiếc áo lớn tượng trưng cho vương quyền, đặt ông nằm giữa hầm mộ, sau đó cử hành nghi thức cổ xưa rồi đóng cửa hầm mộ lại, trên hầm mộ ném cây giáo gãy, cuộn lại và xé rách lá chiến kỳ nổi danh lừng lẫy của ông, để tiếng quát mạnh mẽ của tộc trưởng mãi mãi bầu bạn bên người. Sau đó, mọi người san lấp hố, xây bên trên một ngôi đền bằng đá, có trụ đá ghi niên kỷ và những bức tường đá trắng sáng bóng. Sau khi hoàn tất mọi việc, dân tộc kiên cường bất khuất này lại tiếp tục tiến vào rừng sâu thăm thẳm dưới sự lãnh đạo của một thủ lĩnh mới…
Trác Mộc Cường Ba đọc tới đây, lẩm bẩm nói: “Giống như thánh ca của người Kukuer, nhưng lại khác với những gì chúng ta nhìn thấy.”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Ừm, đây chỉ là nội dung trên ba cây trụ đá trắng thôi, những nội dung khác vẫn đang được gấp rút tiến hành giải mã và dịch ra, tin rằng không lâu nữa sẽ có kết quả thôi. Còn một thứ nữa, còn nhớ loài động vật trâu không ra trâu lợn không ra lợn mà cậu nhìn thấy trong cấm địa Ah Puch không?”
Trác Mộc Cường Ba nói ngay: “Đương nhiên là nhớ, hình như không phải động vật ăn thịt đúng không?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Đối với những nhà nghiên cứu Nam Mỹ, đó đã không còn là bí mật nữa rồi. Loài động vật ấy gọi là trâu lợn, từ những năm ba mươi của thế kỷ trước đã có người phát hiện ra, cũng là một loại động vật mà các nhà khoa học cho rằng đã tuyệt chủng từ bảy đến mười ngàn năm trước, cùng thời với voi ma mút, thổ dân bản địa thường săn bắn làm thức ăn. Về sau đội khảo sát vào rừng tìm kiếm, nhưng không có kết quả gì, cho đến nay vẫn còn một số nhà động vật học đang tìm kiếm nó đấy.”
Lúc này, Trương Lập mừng vui khấp khởi chạy vào, cuống quýt nói: “Giáo sư, Cường Ba thiếu gia, mau ra đây, giáo quan sắp tuyên bố rồi, tin tức tốt đấy!”
Mọi người tập trung cả về gian phòng học lớn. Lữ Cánh Nam nói với học viên bằng giọng hòa nhã nhất có thể: “Có lẽ trong các bạn cũng có người biết rồi. Mấy hôm trước, đối thủ của chúng ta, Ben đã đến Trung Quốc, đồng thời, công an Trung Quốc chúng ta cũng tìm được một tấm bản đồ chú thích bằng tiếng Tạng cổ, nói chính xác hơn, đó là một tấm bản đồ hàng hải, sau khi được các chuyên gia trong nhóm nghiên cứu ngày đêm không ngừng tìm hiểu, cuối cùng chúng ta đã phát hiện ra được vấn đề quan trọng nhất.”
Lữ Cánh Nam dừng lời, chỉ nghe thấy tiếng thở gấp gáp bên dưới, lại tiếp tục nói: “Nếu kết quả của nhóm nghiên cứu là chính xác, thì tấm bản đồ đó là do vị sứ giả có nhiệm vụ mang Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu đến châu Mỹ chôn giấu, trong thời gian ở Maya, dựa vào trí nhớ siêu phàm của mình vẽ nên con đường ông đã đi qua. Vị sứ giả ấy thuở sinh tiền ắt hẳn là một vị trí giả, ông đã vẽ bản đồ của vùng Tây Tạng-Vệ hết sức tường tận rạch ròi, mặc dù không thể so với bản đồ ngày nay, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu được đại khái. Còn hình dạng của các quốc gia châu Á khác và châu Mỹ thì lại hết sức cổ quái, làm các chuyên gia của chúng ta phải vắt hết tâm tư mới nhận ra rằng, đây là hình tượng của hai châu lục lớn này trong mắt người xưa. Nhưng nếu những suy đoán về tấm bản đồ hàng hải này là đúng, thì các địa điểm quan trọng chú thích trên đó lại khiến người ta thật không sao hiểu nổi. Kết hợp với rất nhiều tư liệu khác, nhóm nghiên cứu của chúng ta đưa ra kết luận rằng, vị sứ giả kia sau khi đến Bạch thành lo rằng mình không thể trở về Tây Tạng lấy thành vật khác đi, nên đã dùng trí tuệ của mình vẽ nên tấm bản đồ này. Chắc ông ta giao cho người mình tin cậy nhất trong Bạch thành, sau đó mới trở về Tây Tạng, nhất định đã dặn dò người ở lại rằng, bao nhiêu năm sau đó, nếu có đủ năng lực, hãy đến Tây Tạng xem thử những thứ này thứ kia có còn ở đấy hay không, nếu không còn thì phải làm thế nào. Trong đó có ba nơi cực kỳ quan trọng, sau nhiều tranh luận, chúng tôi cho rằng, một là di chỉ Cổ Cách ở khu vực A Lý hiện nay, một là quần thể cổ mộ ở huyện Lạp Tư, khu vực Xigaze ngày nay, còn nơi cuối cùng, thì nằm ở Mặc Thoát, khu vực Lâm Chi ngày nay.”
“Gì hả?” Cặp mắt Trác Mộc Cường Ba như muốn lồi hẳn ra ngoài, gã kinh ngạc thốt lên, “Vậy chẳng phải là đánh dấu cả ba vùng Tạng-Vệ vào rồi hay sao?” Khu vực A Lý nằm ở phía Tây đất Tạng, trên biên giới Trung-Ấn, Xiaze thì ở miền Trung Tây Tạng, còn Lâm Chi thì ở phía Đông, như vậy, phạm vi đánh dấu của tấm bản đồ này đã bao trùm cả Tây Tạng mấy ngàn cây số vuông rồi.
Nhạc Dương cũng nói: “Nhưng vị sứ giả năm ấy chẳng phải đã bình an trở về rồi hay sao? Vậy chắc ông ta đã mang đi những tín vật còn lại rồi, cho dù không phải ông ta, thì những nhà thám hiểm trước chúng ta có lẽ cũng mang đi mất rồi. Chúng ta còn đi…”
Lữ Cánh Nam ngắt lời: “Đúng vậy, trong Cổ Cách kim thư chép là vị sứ giả kia có trở về thật, nhưng sau hi trở về lại không hề rời khỏi Cổ Cách, hơn nữa chẳng bao lâu sau thì đã qua đời, sách chép rằng u uất bi thương mà chết. Vì vậy, có thể đoán rằng ông ta vẫn chưa kịp đến những nơi khác. Có điều, chúng ta không còn thời gian nữa rồi, đám người của Ben đã xuất phát trước chúng ta mấy ngày, mặc dù những người chuyên trách theo sát chúng cho rằng tên Ben đó đã biến mất ở khu vực Khả Khả Tây Lý, song chúng tôi nghi ngờ đó chỉ là trò che mắt thôi, vì vậy, chúng ta cũng phải nhanh chóng lên đường. Mặc dù không có chú thích nào chỉ ra ba nơi ấy có những gì, nhưng dựa trên những tư liệu khác của chúng ta đã có, các chuyên gia suy đoán đó có lẽ là một tấm bản đồ vẽ trên da sói.”
Trương Lập thắc mắc: “Nhưng tấm bản đồ ấy chẳng phải là đã bị người ta lấy đi rồi hay sao?”
Lữ Cánh Nam cười cười: “Đúng thế, có một tấm bản đồ đã bị người ta lấy đi, nhưng ai có thể khẳng định rằng chỉ có một tấm bản đồ thôi chứ. Vị quốc vương năm đó, đến cả Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu còn phục chế được, vậy thì… tại sao không thể có hai tấm bản đồ chứ? Còn nữa, những người có tấm bản đồ kia, cho đến nay vẫn chưa thể tìm được Bạc Ba La thần miếu, tấm bản đồ bị lấy đi ấy là thật hay giả, giờ cũng chưa thể xác định được. Tóm lại, chúng ta không thể bỏ qua bất cứ đầu mối nào, hơn nữa, đây còn là đầu mối có thế khiến đối thủ của chúng ta hết sức hứng thú nữa!”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy nên chúng tôi phải lập tức đi luyện tập, phải vậy không giáo quan?”
Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Đợi chút đã, hôm nay gọi mọi người đến đây chính là vì còn có bài học mới nữa. Có câu, biết mình biết người, trăm trận trăm thắng, lần này chúng ta lên đường chỉ sợ sẽ phải đối mặt với quân đội đặc chủng chính quy của nước ngoài, mặc dù không biết đối phương có thể mang vũ khí vào lãnh thổ Trung Quốc hay không, nhưng tôi vẫn phải nói cho mọi người biết về một số vũ khí loại mới mà bọn họ sử dụng.”
Rèm cửa đều hạ xuống, đèn phòng tắt hết, trên màn hình máy chiếu, bọn Trác Mộc Cường Ba lần lượt tìm hiểu các loại vũ khí mà đối thủ sử dụng. Ngoài các loại vũ khí thông thường của lính đặc chủng, còn có những loại vũ khí hoàn toàn mới mà mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba chưa từng thấy bao giờ, bao gốm súng lắp ống kính camera có thể xoay ngoặt, còn có một loại lựu đạn sáng khiến người ta cũng lúc mất cả thị giác lẫn thính giác, thuốc nổ hẹn giờ dạng dính hình cúc áo, một loại thuốc giảm đau tác động đến trung khu thần kinh, khiến người ta dù tổn thương đến vỡ xương gãy xương cũng không hề thấy đau đớn… Loạt vũ khí mới đó khiến bọn Trác Mộc Cường Ba hoa hết cả mắt, càng nghe lại càng thấy rợn người, nói thế nào cũng thấy giống như mình sắp đi đánh trận…
Thời gian không còn nhiều, chỉ có một ngày để thu thập tư liệu, ngày thứ hai cả nhóm đã sắp xếp hành trang lên đường, đích đến của họ lần này là… Mặc Thoát!
Vùng đất bí mật cuối cùng
Mặc Thoát, ở triền Nam dãy Himalaya, tiếp giáp với Ấn Độ, dịch nghĩa ra là “đóa sen bí ẩn”, từ “Mặc Thoát” trong tiếng Tạng được dùng để chỉ hoa. Nơi này là huyện duy nhất trong toàn quốc không thông với đường quốc lộ, gọi là “hòn đảo cô độc trên cao nguyên”, địa thế Nam thấp Bắc cao, diện tích khoảng ba mươi ngàn kilomet vuông, thuộc vùng lòng chảo hạ du sông Nhã Lỗ Tạng Bố, độ cao trung bình một ngàn mét so với mực nước biển. Mặc Thoát nằm trên vùng đứt gãy Himalaya và vùng đứt gãy Mặc Thoát, hoạt động địa chất rất phức tạp, thường xuyên xảy ra động đất, sụt lở, đất đá trôi, cộng thêm khí hậu ẩm thấp nhiều mưa. Chính phủ cũng từng đầu tư một khoản tiền lớn để xây đường, song gần như không thấy hiệu quả gì. Tương truyền, chính A Quỳnh Kết Ba bảo hộ cho thánh địa cuối cùng của Tạng giáo nguyên thủy này, không để người khác xâm hại; cũng có người nói đây là kết quả năm xưa A Quỳnh Kết Ba đấu ghép với Liên Hoa Sinh đại sư, khiến nơi này núi cao lởm chởm, khe núi sâu dài, lấy sông Nhã Lỗ Tạng Bố làm ranh giới, vạch ra một quan ải thiên nhiên hiểm trở khó thể vượt qua..
Vùng đất núi non bao bọc, lúc nào cũng có nước chảy qua này được các tôn giáo trên đất Tạng coi là thánh địa, Phật giáo cũng vậy, mà các tôn giáo khác cũng vậy. Vì có đại hiệp cốc 4 Nhã Lỗ Tạng Bố, đặc trưng của vùng này chính là “một núi bốn mùa, mười dặm khác thời tiết”; đứng ở chân núi cao mấy trăm mét so với mực nước biển, sẽ được hưởng khí hậu cũng như cảnh sắc của vùng á nhiệt đời, nhưng khi tốn nửa ngày thời gian trèo lên đỉnh núi cao mấy ngàn mét, khí hậu đã chuyển sang thành khí hậu địa cực rồi.
Di tích sông băng cổ nơi này khá phổ biến. Từ sông băng cổ đến lòng chảo sông hiện đại, địa hình đã chuyển từ khe hình chữ “U” tương đối rộng rãi thành khe hẹp và sâu hình chữ “V”, sức ăn mòn của dòng chảy cực lớn, thường hình thành nên những “khe trong khe”, độ cao chênh lệch lên tới 7.000 mét. Mặc Thoát dựa vào khe núi Nam Ca Ba Ngõa cao 7.766 mét so với mực nước biển, bên cạnh là ngọn Gia La Bạch Lũy cao 7.151 mét, vùng đất thấp nhất trong huyện cũng cao 750 mét so với mực nước biển, giữa hai khe có sông treo, và các thác nước lớn nhỏ nối liền, tạo nên một khung cảnh cực kỳ tráng lệ của thiên nhiên.
Mặc Thoát ban đầu gọi là “Lạc Du”, tức là nơi người Lạc Ba sinh sống, về sau các dân tộc hay quần tộc Môn Ba, Hạ Nhĩ Ba, Tạng, Tranh cũng chuyển đến, từ đó đến nay vẫn sống tự túc tự cấp, phương thức sản xuất và phong tục rất độc đáo. Vì đường đi gồ ghề khúc khuỷu, những dân tộc này đã quen với cách sống “lên núi giữa ngàn mây, xuống núi ra bờ sông, nói phải nghe ra tiếng, đi đường phải một ngày” rồi.
Ở dải đất sâu trong trung tâm, nguy hiểm nhất đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, chính là đoạn sông dài gần trăm cây số từ Bạch Mã Cẩu Hùng đi xuống, khe núi sâu thẳm u tối, nước chảy cuồn cuộn, đến giờ vẫn chưa ai có thể đi qua được. Chính vì sự khó khăn và nguy hiểm ấy, nên nơi này được gọi là “vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại”. Theo sự chỉ dẫn của tấm bản đồ kia, bọn Trác Mộc Cường Ba, đang chuẩn bị đến chính nơi đó thử vận may.
“Tại sao chúng ta lại chọn Mặc Thoát vậy?”
“Bởi vì nơi đó là có khả năng tìm thấy nhất. Cậu nghĩ xem, năm 1985, sau khi nhà nước thành lập đội khảo cổ chuyên trách khảo sát, di chỉ Cổ Cách đã được xếp hạng di tích được bảo hộ, nếu trong đó có thứ gì thì cũng đã bị khai quật lên hết cả rồi. Hơn nữa lối vào đánh dấu trên bản đồ cách di chỉ Cổ Cách ngày nay tới mấy chục cây số, chỉ e vị trí không được chính xác cho lắm. Còn quẩn thể mộ cổ La Tư bây giờ cũng được liệt vào hàng văn vật quốc gia, chúng ta có đi chắc cũng chẳng thu hoạch được gì đâu. Chỉ có Mặc Thoát, đến năm 1993 mới lần đầu tiên thông đường, nhưng chưa được nửa năm đã sụt lở nên không thể sử dụng, cho đến nay, những người từng đi Mặc Thoát và người từ Mặc Thoát trở ra đều có thể dùng đầu ngón tay là đã đếm hết, mà quan trọng hơn cả là… thực ra nơi đó, có mối liên hệ rất lớn với Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta đang tìm kiếm.”
“Quan hệ rất lớn?”
“Đúng vậy, Mặc Thoát núi non trùng điệp, riêng thần sơn với thánh đồ đã có mấy chục chỗ, mặc dù không thông với đường quốc lộ, nhưng nơi này không chỉ là thánh địa của Phật giáo, mà còn là thánh địa và nơi khởi nguồn của Tạng giáo nguyên thủy và Bản giáo cổ nữa. Đến ngày nay ở đó vẫn còn tín đồ Bản giáo, lưu truyền rất nhiều câu chuyện đại tôn sư của Bản giáo và đại tôn sư Phật giáo đấu phép. Mà Bạc Ba La thần miếu chúng ta đang tìm kiếm dường như có liên hệ rất sâu xa với Bản giáo thì phải.”
“Gì cơ? Có liên hệ rất sâu xa với Bản giáo? Chẳng phải đó là nơi các tăng lữ dời đến trong thời kỳ diệt Phật hay sao?”
“Không sai, nhưng dựa trên những tư liệu chúng ta có, vì khi ấy đang nổi lên làn sóng diệt Phật, tất cả các tăng lữ Phật giáo đều gặp nạn, bọn họ cần nhờ đến lực lượng của các tôn giáo khác để hoàn thành nhiệm vụ che giấu và vận chuyển một lượng lớn các vật phẩm. Mà trong thời kỳ ấy, sợ rằng cũng chỉ có các tín đồ Bản giáo là chấp nhận bỏ qua hiềm khích trong quá khứ thôi. Hơn nữa, như vị sứ giả mang tín vật kia, bản thân cũng chính là một giáo đồ Bản giáo thì phải.”
“À, tôi nhớ ra rồi, không phải đại sư đã nói, cái huyết trì còn nguyên dạng đầu tiên được khai quật ở Mặc Thoát hay sao, nói như vậy thì đúng là có quan hệ rất lớn với nơi này rồi. Huyết trì có phải dụng cụ tế lễ của Bản giáo không?”
“Cũng chưa chắc, khi Phật giáo dần dần đi sâu vào lòng người, có rất nhiều tín ngưỡng nguyên thủy đã bị nó đồng hóa, mà ban đầu vùng Tây Tạng này rốt cuộc có bao nhiêu tôn giáo, đến giờ cũng không ai nói chắc được. Lấy Mật giáo của chúng tôi làm ví dụ nhé, tương truyền trước đây Mật giáo cũng không phải một nhánh của Phật giáo, mà là một tôn giáo hoàn toàn độc lập, nhưng bây giờ, chúng tôi và Tạng truyền Phật giáo đã dung hợp lại thành một và không thể tách rời rồi.”
“Sao chúng ta không chia tổ ra? Như vậy có thể cùng lúc tìm ở hai nơi khác nhau, nói không chừng còn phát hiện ra điều gì đó trước tên Ben kia ấy.”
“Không được, chúng tôi đã suy tính rất kỹ về vấn đề này. Nếu không có đối thủ nào, chúng ta tất nhiên có thể chia làm hai tổ lên đường, nhưng tên Ben Merkin kia quả thực là ghê gớm, trước khi chúng ta làm rõ gốc gác của bọn chúng, cần phải hợp lại mới đối kháng được. Hơn nữa, lần này cứ coi như là kỳ sát hạch nhóm cuối cùng đi, tôi lần đầu tiên dẫn mọi người lên đường, một là có thể quan sát hiệu quả huấn luyện của mọi người, hai là đồng thời cũng có thể sửa chữa những sai sót lệch lạc cho từng người nữa.”
“A, không biết lần này đến Mặc Thoát có kinh khủng như rừng rậm châu Mỹ không nhỉ?”
“Tuyệt đối là không, có mấy tuyến đường khác nhau để đi Mặc Thoát, trong đó lộ tuyến truyền thống là từ huyện Mê Lâm – Đa Hùng Lạp – Nã Cách – Hãn Mật – Mã Ni Ông – Bối Đăng, lộ tuyến của chúng ta là từ huyện Mê Lâm, qua Đại Độ Ca, Cách Ca, sau đó tới Gia Lạp, đi dọc dòng sông tiến vào đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố. Vì từ Gia Lạp trở đi là khu vực không người, đi dọc theo bờ sông đại khái mất khoảng hai, ba ngày là tới được Bạch Mã Cẩu Hùng. Chúng ta đi nhanh, có lẽ chỉ cần hai ngày là đến rồi. Có thể đảm bảo, đây là một con đường hết sức an toàn!”
“Chậc, sao tôi nghe trong ngữ điệu như có sự uy hiếp thì phải?”
“Suỵt… nhỏ thôi, tai giáo quan thính lắm đấy.”
Cả đoàn người rì rầm nói chuyện, cùng xuất phát tiến về hướng vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại. Vừa tới bờ sông, các thành viên tron đội đều ngớ mặt ra. Con đường nhỏ mà Lữ Cánh Nam bảo là cực kỳ an toàn ấy, hóa ra chỉ là một dải hẹp chìa ra lơ lửng trên vách núi, rộng chưa đến một thước, so với sạn đạo vào đất Ba Thục thời cổ còn hẹp hơn nhiều, vách đá thì trơn nhẵn như bị một đường búa xẻ ra, bên dưới là sông Nhã Lỗ Tạng Bố cuồn cuộn sóng cồn, tiếng sóng vang động như sấm. Con đường nhỏ lơ lửng này không cao lắm, cách sông Nhã Lỗ Tạng Bố chừng ba tới năm trăm mét, nếu lỡ rơi xuống có bị lộn nhào mấy vòng trên không cũng vẫn kịp hô gọi cứu mạng, có điều muốn leo trở lên thì e không dễ dàng gì cho lắm.
Nhạc Dương khó khăn nuốt nước bọt đánh ực, nghẹn lời lẩm bẩm: “Đây chính là cực kỳ an toàn à!”
Trương Lập làm bộ khoa trương, ấn hai tay lên ngực nói: “Tôi mắc chứng sợ độ cao rất nặng, Cường Ba thiếu gia có thể làm chứng. Giáo quan, chúng ta là đội khảo sát cấp quốc gia cơ mà, tại sao không phái một chiếc trực thăng…” Lữ Cánh Nam lừ mắt nhìn qua, Trương Lập vội vàng nói: “Ờ hớ, tôi nói… nói là… cái kia… kia…, tôi đang nói gì ấy nhỉ?” Anh chàng đánh mắt sang hỏi Nhạc Dương.
Lữ Cánh Nam đáp: “Không được, dòng xoáy không khí trong hiệp cốc rất mạnh, trực thăng không thể tác nghiệp ở độ cao thấp được. Chứng sợ độ cao hả? Lúc huấn luyện sao không thấy cậu sợ độ cao?”
Nhạc Dương đầu óc linh hoạt, liền phát biểu ý kiến khác: “Có thể nhảy dù mà.”
Trương Lập cũng thẽ thọt nói: “Lúc huấn luyện chỉ cao có mấy chục mét, sao mà so với chỗ này được.”
Lữ Cánh Nam nói: “Các cậu tưởng tôi chưa nghĩ đến sao? Sử dụng phương tiện giao thông đúng là có thể tiết kiệm được thời gian, nhưng các cậu có thử nghĩ chưa, trực thăng là mục tiêu lớn thế nào, nếu bọn chúng cũng ở gần đấy hơn nữa lại có vũ khí… nhớ cho kỹ, không được có bất cứ sai sót nào. Kể từ bây giờ, chúng ta phải giữ tốc độ mỗi ngày đi một trăm cây số, trong hai ngày sẽ đến được Bạch Mã Cẩu Hùng. Ở đó có đường lớn, có thể vượt sông, sau đó chúng ta sẽ đi thẳng tới đích đến của lần này, một nơi tên gọi là Lạp Mẫu Bạc Quả.”
Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn Ba Tang, thấy anh ta vẫn lạnh lùng như trước, không để lộ chút cảm xúc gì ra mặt.
Đi trên con đường nhỏ lơ lửng nơi vách núi, mặc dù đều trải qua huấn luyện đặc biệt, mọi người vẫn hết sức cẩn thận, dù sao thì bên dưới cũng là dòng sông cuồn cuộn sóng, rơi xuống tuyệt đối không phải trò đùa. Đi được chừng mười dặm, Lữ Cánh Nam đi đầu tiên đột nhiên chậm lại, cả đoàn cũng cùng lúc dừng lại theo, mọi người nhất loạt trụ vững thân hình. Chỉ riêng một động tác dừng lại đơn giản thế này thôi, cũng đã phải trải qua nhiều lần tập luyện mới đạt tới mức đồng điệu nhịp nhàng thế này, bằng không đang đi với tốc độ cao, phía trước bất ngờ xuất hiện đoạn gãy đứt, nếu người phía sau không kịp dừng bước, khẽ huých vào người đi trước một cái, người phía trước rất có thể sẽ rơi xuống. Mà ở trên vách núi nhô ra rộng chưa đầy một mét này, hai người đụng vào nhau, nguy cơ cả hai cùng rơi xuống là rất lớn. Bạn đang đọc truyện được lấy tại Truyenyy chấm cơm.
Lữ Cánh Nam dẫn đầu, lạt ma Á La đi sau cùng đoạn hậu. Nhân lúc dừng lại, Trương Lập đi ở giữa hỏi Nhạc Dương đứng trước mình: “Sao thế hả?”
Đường Mẫn đứng trước Nhạc Dương nói: “Đất sụt.”
Mặc dù Trác Mộc Cường Ba đứng giữa, nhưng thân hình cao lớn, chỉ lờ mờ trông thấy đoạn đường hẹp phía trước bị bùn đất ở trên sụt xuống lấp mất, phần nhô ra trên vách đá chỉ rộng bằng lòng bàn tay. Đoạn đường hẹp không đủ chỗ đặt chân này dài tới mười bảy mười tám mét, Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát, rồi đặt ba lô xuống, ép lưng sát vào vách đá, hai chân giạng ra hình chữ bát, hai tay bám ngược vào đá, nhích người qua từng bước một. Đi qua đoạn ấy, cánh tay liền vung lên kéo chiếc ba lô qua, thì ra từ nãy cô đã quấn sợi dây thép mảnh trên cổ tay vào quai lô rồi. Mọi người liền làm theo cách đó, từng người đều đi qua được. Tới lượt Trác Mộc Cường Ba, gã hít sâu một hơi, áp lưng vào vách đá, hai mắt nhìn thẳng về phía trước, nhìn thấy phía đối diện hiệp cốc núi xanh mơn mởn, lũ chim bay lượn trên cao, nghe thấy tiếng nước chảy ầm ầm, khoảng cách có mười mấy mét mà gã dù được huấn luyện đặc biệt rồi cũng mất gần hai phút mới qua được. Dọc đường cũng hơi thấy nền đá dưới chân lơi ra, tựa hồ như có đá vụn rơi xuống lả tả, có điều cuối cùng cũng qua được bình an.
Người cuối cùng là lạt ma Á La nghệ cao gan lớn, không cần cởi ba lô, mà xoay người úp mặt vào vách đá, ba lô lơ lửng giữa không trung. Trác Mộc Cường Ba biết rõ, đi qua như vậy, trọng tâm hoàn toàn lệch về phía ngoài vách đá, bản thân gã tự nhủ mình không có bản lĩnh ấy. Gã đang nghĩ ngợi, bỗng thấy đá dưới chân lạt ma Á La sụt, cả người ông đã thụt hẳn xuống, trái tim gã như muốn nhảy tót ra khỏi lồng ngực. Chợt thấy ông vươn tay ấn vào một kẽ nứt cạnh đó, cả người bốc hẳn lên cao, tựa như cánh ưng chao liệng. Lúc đó gã ngước lên nhìn lại, vị sư già đã đứng vững vàng phía bên này đoạn đường hẹp ấy rồi.
Nhạc Dương gần như không hiểu nổi, người bộ tộc Môn Ba làm sao mà đi đi lại lại trên con đường này được. Có điều anh chàng cũng biết, người đi được trên con đường này quả thực là ít càng thêm ít, ở đây mười mấy hai mươi ngày không thấy bóng người cũng là chuyện hết sức bình thường.
Cùng lúc ấy, Merkin dẫn theo một đám người đang ở trong gian đại sảnh màu vàng rộng lớn. Bọn họ cắm những ống phun lửa nhỏ vào bốn bức tường, sau đó đứng ngắm nghía gian đại điện rộng rãi. Merkin mặc bộ rằn ri của lục quân Anh quốc, chiếc thắt lưng bản lớn bó chặt làm thân hình khôi vĩ của y thêm phần cao lớn mạnh mẽ. Soares vẫn mặc chiếc áo xám trông như thầy mo, chỉ đệ lộ ra nửa gương mặt quỷ trông chẳng khác nào quả quýt nát nhừ.
Một người thân hình gầy gò nhỏ bé dùng thứ tiếng từa tựa như tiếng Tạng cổ nói: “Xin Thánh sứ đi theo tôi, bên này có lẽ có thứ các vị muốn tìm.” Soares đưa mắt nhìn Merkin, khóe miệng nhếch lên tựa hồ như cười mà không phải cười. Merkin bừng bừng nổi giận, nhấc cái người nhỏ bé cao chưa tới mét rưỡi kia lắc mạnh: “Ta đã bảo với ngươi rồi, ở bên ngoài không cần gọi ta là Thánh sứ thánh siếc gì cả! Ngươi không hiểu à!”
Người nhỏ bé kia không phản kháng, vẫn gượng cười nói: “Vâng, Thánh sứ đại nhân.”
Merkin chán nản thở dài, đành dặn dò đám thủ hạ canh gác cẩn thận, rồi cùng Soares theo chân người nhỏ con kia đi qua cánh cửa đá khổng lồ, xuống những bậc thang rộng tới một gian phòng giống như gian thờ Phật. Giữa căn phòng đặt một cái đài cao hình tròn có hàng lan can gỗ mục nát, trên đài đặt một pho tượng đá lớn tạc hình hai người đứng ôm chặt nhau. Merkin không khỏi bật lên tiếng cười lạnh lẽo: “Hoan Hỉ Phật, giáo phái này thờ toàn tà Phật hả, hừ… lý thú lắm.”
Soares nói: “Chỗ này còn tà dị hơn những gì chúng ta tưởng tượng nữa, cả tôi và anh đều không hề biết gì về giáo phái nguyên thủy này. Chẳng hạn những thứ động vật bọn họ đặt trong các vò vại kia cả tôi cũng chưa từng thấy bao giờ, hình như vừa giống cá, lại vừa như động vật có vú. Còn các thi thể bên ngoài kia nữa, ở đây e là còn tà quái hơn địa cung Ah Puch nhiều.”
Người đàn ông nhỏ bé kia dường như vừa hoàn thành việc gì đó, quay sang cung kính nói với Merkin: “Thánh sứ, mời ngài xem…” Chỉ nghe “rầm” một tiếng, bức tượng đá khổng lồ không ngờ đã tách ra!
Buổi sáng đi được ba mươi kilomet, dọc đường gặp phải sáu chỗ đất sụt, có nơi thậm chí hoàn toàn không thể đi được, chỉ còn cách bám vào vách đá trèo qua. Lữ Cánh Nam nói, có thể trận mưa lớn ba ngày trước chính là nguyên nhân gây nên sụp lở đất trên phạm vi lớn. Buổi trưa, họ tìm thấy một chỗ tương đối rộng rãi, vách đá lõm vào trong một chút, hình thành nên một hang động bán thiên nhiên, liền dừng lại chuẩn bị dùng bữa. Cũng may là dọc đường còn có một số hang hốc nhân tạo này nên người đi đường mới có một số chỗ nghỉ ngơi. Lữ Cánh Nam đột nhiên nói: “Giáo sư, đại sư, mọi người xem ở trong này…”
Trác Mộc Cường Ba cũng hen vào, chỉ thấy dưới đất có một mẩu thuốc, màu sắc phai hết, cách đó không xa còn có hai mẩu nữa, những chỗ khác cũng có vài thứ linh tinh. Giáo sư Phương Tân nói: “Xem ra, bọn chúng đã qua đây rồi, giờ đang ở ngay phía trước chúng ta thôi.”
Lạt ma Á La gật đầu: “Đúng thế, dân Tạng không hút thứ thuốc này.”
Lữ Cánh Nam nhìn mặt đất khô ráo, nói: “Đầu mẩu thuốc này chưa bị ngâm nước thì không mất màu đên mức này đâu, ít nhất chúng cũng đi qua đây từ ba hôm trước rồi.” Nói đoạn, cô xoay người lại, “Ăn nhanh lên, ăn xong chúng ta còn phải lên đường cho sớm.”
Lạt ma Á La lắc đầu: “Chỉ e đã muộn mất rồi.”
Lữ Cánh Nam nói: “Dù thế nào, chúng ta cũng phải đến xem thử một phen, hơn nữa…” cô ngẩng đầu lên, “chỉ có hai ngày tới đây trời mới không mưa, nếu sau hai ngày mà vẫn chưa qua được đoạn đường trên vách núi này, muốn tiến lên lại càng khó khăn hơn gấp bội đấy.”
Sau đó đoàn người lại phát hiện ra nhiều bao bì thực phẩm vương vãi bên đường, mỗi thứ dường như đều cố tình chọc vào mắt bọn họ, khiến ai nấy càng thêm nôn nóng hơn. Qua các dấu vết đối phương để lại, có thể phán đoán sơ bộ như sau, nhân số của chúng khoảng từ mười đến hai mươi người, đều được huấn luyện kỹ càng. Ở những chỗ đất sụt sau cơn mưa ba hôm trước, còn phát hiện dấu vết sử dụng đinh tán và dây trượt. Ngoài ra đám người này thích dùng các đồ ăn có nhiệt lượng cao, có lẽ là đến từ một vùng đất lạnh lẽo. Thói quen thường ngày của chúng rất tệ, túi bọc đều bị xé rách toang, đầu mẩu thuốc vứt lung tung, đại tiểu tiện bừa bãi, lại còn hút cả thuốc phiện nữa. Lữ Cánh Nam cho rằng, những thói quen này rất giống của đám lính đánh thuê. Vì giờ phút nào cũng phải lượn lờ qua mặt tử thần, nên tính tình chúng hầu hết đều hết sức lưu manh. Còn có một số dấu vết chỉ ra rằng, thân hình bọn chúng không cao lớn lắm – đây là một điểm không khỏi khiến người ta phải sinh nghi.
Thấy Lữ Cánh Nam phân tích hết sức rõ ràng, Trác Mộc Cường Ba dần dần cũng lĩnh hội được một số cách tư duy của Lữ Cánh Nam. Cả đoàn người cứ hành quân như vậy, cũng phải tới hoàng hôn ngày thứ ba mới đến được con đường lớn mà Lữ Cánh Nam nói ban đầu.
Nhạc Dương là người đầu tiên kêu ca: “Giáo quan à, cô có thể dùng con mắt của người bình thường mà nói với chúng tôi, con đường này rốt cuộc là thế nào không? Đừng có dùng con mắt của cô nhìn vấn đề có được không hả, cái này… cái này mà gọi là đường lớn ư? Rõ ràng là dây trượt Đại Lưu Tố mà.”
Đại Lưu Tố là một điểm đặc sắc của đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, cũng là con đường duy nhất để người các bộ tộc như Môn Ba, Lạc Ba vào ra Mặc Thoát, là một sợi dây sắt to như cột đèn dài mấy trăm mét, vắt ngang hai bên vách núi. Khi trượt qua, người bản địa sử dụng giá gỗ tự chế gá lên xích sắt, rồi quấn một sợi thừng ở eo hông, sau đó buộc chặt hai đầu giá gỗ, hai chân giơ lên cao, kẹp hờ vào dây xích, rồi thuận theo độ cong của xích sắt mà trượt xuống, khi trượt tới mấy chục mét cuối cùng, phải dùng cả tay lẫn chân để bám leo lên.
Nếu không đủ kỹ thuật và tài nghệ, lúc sắp đến bờ bên kia không kịp thời bám lấy dây xích, sẽ bị trượt ngược trở lại, cuối cùng lơ lửng ở chính giữa dây xích, bên dưới mấy trăm mét là dòng Nhã Lỗ Tạng Bố sóng cuộn ầm ầm như sấm động, giữa hiệp cốc lại thường có gió buốt thổi qua, nghe nói mùi vị ấy thật vô cùng khó chịu, đã từng có trường hợp bị hãi hùng mà mắc phải bệnh thần kinh. Khi ấy, cách duy nhất chính là có người giỏi kỹ thuật trượt qua, đẩy người phía trước sang bờ đối diện, ngoài ra số người ở trên xích sắt cùng một lúc không thể quá nhiều, một là đụng chạm vào nhau sẽ cực kỳ nguy hiểm, hai là dây xích cũng không thể chịu được trọng lượng quá lớn, có thể đứt đoạn.
Bọn Trác Mộc Cường Ba sử dụng bánh xe trượt, tốc độ di chuyển lớn hơn giá gỗ nhiều lần, hơn nữa chỉ cần leo lên là có thể trượt đi ngay, có điều đến đoạn cuối cùng thì vẫn phải dùng cả tay lẫn chân bò lên.
Mấy người đi trước đều đã an toàn sang bờ bên kia, riêng Đường Mẫn bỗng dưng sợ hãi. Trác Mộc Cường Ba khuyên mấy lần, nhưng cô vẫn không dám treo mình lên. Không còn cách nào khác, gã đành để những người khác qua trước, cuối cùng chỉ còn lại hai người, gã và Đường Mẫn, phải cổ vũ mãi, cuối cùng Đường Mẫn mới chịu đồng ý thử một lần.
Ở đầu bên kia, Lữ Cánh Nam hỏi: “Đường Mẫn sợ dây thừng hả?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, lúc leo lưới thì không sợ, nhưng lúc trượt dây hình như hơi sợ một chút, có điều chưa lần nào sợ đến mức này cả, mỗi lần cũng đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.”
Lữ Cánh Nam nắm sợi xích trong tay, trầm ngâm giây lát rồi nói: “Có thể cô ấy từng bị rắn cắn. Trương Lập, Nhạc Dương, hai người lại gần đây một chút, đợi lát nữa nếu cô ấy không trèo lên được thì giúp một tay kéo lên.”
Trương Lập và Nhạc Dương chia nhau đứng hai bên dây xích. Chỉ thấy Đường Mẫn cắn môi trượt qua, vừa tới đầu bên này, thân hình dừng sững lại, đáng lẽ phải lập tức kẹp chặt hai chân, đồng thời dùng cả hai tay ôm lấy dây xích leo lên, nhưng không hiểu tại sao, tay Đường Mẫn vẫn nắm chặt lấy bánh xe trượt, không dám ôm lấy xích sắt. Trương Lập vội hét lớn: “Bám lấy xích sắt, bám lấy xích sắt đi!” Đồng thời cùng Nhạc Dương tiến lên trước một bước, đến sát mép vách đá, chuẩn bị tóm lấy chân Đường Mẫn kéo lên.
Lúc này, Đường Mẫn đột nhiên trượt ngược về phía sau, Trương Lập và Nhạc Dương đều không kịp tóm lấy, chỉ biết trơ mắt ra nhìn Đường Mẫn trượt đi càng lúc càng xa, kế đó trượt đi trượt lại trên dây xích mấy lượt, cuối cùng dừng lại ở chính giữa sợi xích sắt.
Lữ Cánh Nam nói: “Cô ấy không qua được rồi, lúc huấn luyện sao không phát hiện ra vậy?”
Lạt ma Á La nói: “Có lẽ khi huấn luyện làm tương đối ít, dù sao trượt dây cũng là một hạng mục rất đơn giản, hơn nữa bên dưới bãi huấn luyện là cát, hoàn cảnh không giống như bây giờ.”
“Hình như cô ấy không chịu được nữa rồi!” Trương Lập và Nhạc Dương cùng lúc kêu lên, chỉ thấy hai chân Đường Mẫn không hiểu tại sao đột nhiên tuột ra, cả người lơ lửng trên sợi xích sắt, hơn nữa, còn đung đưa dữ dội giữa không trung!
“Không xong rồi, có âm phong!” Đôi lông mày lá liễu của Lữ Cánh Nam nhướng lên, lẩm bẩm nói, “Đành xem có qua nổi cửa ải này không vậy.”
Thụ táng
Khu vực không người trên hoang mạc, phóng mắt nhìn ra chỉ thấy một dải cát dài tít tắp, tháp cao san sát, gió thổi đá chạy, một đoàn người xếp hàng một, trông tựa như một con sâu dài nhiều chân lặc lè bò trên cao nguyên hoàng thổ. Leo lên ngọn đồi cao nhất khu vực, bốn ngàn mét so với mực nước biển, gió lạnh thổi qua, tinh thần con người cũng thêm phần phấn chấn, Merkin bít một hơi khí lạnh: “Con đường quỷ quái này, rốt cuộc còn bao xa nữa đây?”
Soares cười gằn lạnh lẽo: “Thánh sứ, không tìm được đường nữa à?”
Merkin nổi giận nói: “Tôi đã bảo bao nhiêu lần rồi, tôi cũng không biết tại sao mình lại thành thánh cái gì sứ cái gì đó, thật sự là họ không hề nói gì với tôi cả. Giờ không có cái đám người ấy, đừng gọi tôi như vậy nữa.” Y ngoảnh sang nhìn Soares, hết sức thành khẩn nói. “Tin tôi đi, Soares, ngoài chuyện huyết trì lần trước, tôi không hề giấu giếm anh bất cứ việc gì nữa.”
Soares chỉ cười cười không tỏ thái độ gì, tiếp tục tiến lên. Max đi sau thấy vậy, khẽ nhếch mép lên cười.
Vì không có đường, hơn nữa đâu đâu cũng thấy đồi gò đất san sát như rừng, người không quen đường thuộc lối căn bản không thể điều khiển xe đi trong khu vực này được. Năm chiếc xe của bọn Merkin đều hỏng dọc đường, cả bọn đều phải đeo những chiếc ba lô nặng nề cuốc bộ tiến lên. Đây là vùng Tây Nam khu vực A Lý, trong vòng hai trăm kilomet vuông không thấy một bóng người sinh sống, cách di chỉ Cổ Cách chừng hơn trăm kilomet, kết cấu địa lý cực kỳ đặc biệt, được gọi là “thổ lâm” (rừng đất).
Địa mạo “núi rừng bằng đất” đặc biệt này, là do tầng trầm tích dưới đáy hồ nơi đây từ thời viễn cổ bị ảnh hưởng bởi quá trình tạo sơn của dãy Himalaya, mực nước hạ xuống, đáy hồ nâng lên, đồng thời bị khí hậu biến đổi và nước sông xói mòn cắt xẻ mà hình thành nên. Vách núi dựng đứng hiểm trở thoạt nhìn tựa như những tòa thành, tháp canh, tháp Phật nguy nga hùng vĩ, muôn hình vạn trạng, tráng lệ vô cùng.
Soares lấy bản đồ ra, nói: “Theo lời tên nhỏ con kia, chắc là ở ngay gần đây thôi, A Nam Tháp đang ngủ say, A Nam Tháp, bên kia…” Ở hướng Soares chỉ tay, chỉ thấy rừng đất cao lớn tựa như vô số tòa linh tháp khổng lồ đứng san sát cạnh nhau, xoáy thành hình rồng, nếu không phải lên cao nhìn xa, ở giữa nơi ấy thì căn bản không thể phân biệt được.
Merkin vung tay lên ra lệnh: “Chạy tới đó!”
Hai tiếng đồng hồ sau, đám người này cũng đến được dưới chân khu rừng đất, trong mắt đều lộ ra vẻ kinh ngạc. Merkin nhếch mép lên nói: “A, khó mà tin nổi.”
Phía trước gò đất nhô cao, mặt đất nứt nẻ, sườn dốc san sát nối nhau như bát úp, hang đất trùng trùng điệp điệp như tổ ong, từ trái sang phải, nhìn ngút tầm mắt mà cũng không thấy hết, khiến người ta có cảm giác nơi này chẳng phải cao nguyên Tây Tạng, mà như hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng vậy. “Trái tim của A Nam Tháp, ẩn chứa ánh sáng màu bạc…” Merkin lẩm bẩm nói, rồi nhìn theo hướng chạy của khu rừng đất. Chỉ thấy những gò những đồi san sát nhau nhấp nhô trải dài từ hướng Tây sang hướng Bắc, ngoằn ngoèo uốn khúc, tựa như một con rồng khổng lồ đang ngóc đầu lên cao, muốn xé toang không gian mà đi. Bọn y lúc này chính là đang đứng ở đuôi rồng. Merkin búng ngón tay đánh “tách” một tiếng: “Hướng Bắc, hướng Bắc.”
Vì hai bên đại hiệp cốc đều là cao nguyên cao mấy ngàn mét so với mực nước biển, địa hình sông kẹp giữa núi thế này sẽ khiến không khí bị thổi vào hiệp cốc sẽ chỉ có thể tiến ra theo một hướng duy nhất. Gió giống như nước triều, từng đợt từng đợt hết sức mãnh liệt, gió lớn có thể thổi cho sợi xích nặng nề đung đưa không ngớt, người ở trên dây cũng gian nguy chẳng kém gì gặp phải cơn sóng thần trên biển lớn.
Cơn gió lạnh làm Đường Mẫn chao đảo trên dây xích như con diều đứt dây, liên tiếp đảo lộn mấy vòng, mắt trợn ngược lên, bàn tay bám vào sợi thừng mỗi lúc một lơi dần. Nhìn Đường Mẫn rơi vào tình cảnh ấy, Lữ Cánh Nam nôn nóng kêu lên: “Không được rồi, cô ấy không trụ được đâu, tôi phải đi kéo cô ấy về. Gió đã ngừng chưa?”
Bỗng chợt nghe Nhạc Dương kêu toáng lên: “Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia qua rồi!”
Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba quấn chặt sợi dây nối với bánh xe trượt vào cổ tay, một tay giữ dây trượt, nhanh chóng lướt về phía Đường Mẫn, đúng trong khoảnh khắc gió vừa ngừng, người vừa rơi xuống, gã đã tựa như chim éo điểm nước, ôm Đường Mẫn vào lòng, rồi lao vút về phía bên này. Trương Lập lẩm bẩm nói: “Chà, thân thủ Cường Ba thiếu gia khá thật, nếu đến đoàn xiếc diễn tạp kỹ, đảm bảo là có nhiều người đến xem lắm.” Lữ Cánh Nam chỉ khẽ hừ một tiếng, hàng lông mày càng nhíu chặt lại.
Trác Mộc Cường Ba cởi ba lô, đặt Đường Mẫn xuống đất, chỉ thấy sắc mặt cô trắng bệch như tờ giấy trắng, môi tái xanh đen, ý thức mơ hồ, không ngờ đến cả hơi thở cũng đã ngưng lại, gã vội vàng giúp cô hô hấp nhân tạo. Đè bốn thở một, chính là ấn ngực bốn lần, rồi miệng áp miệng hô hấp một lần, làm như vậy mấy lượt liền, Đường Mẫn mới khẽ khục khặc ho một tiếng, cuối cùng cũng coi như hô hấp được bình thường trở lại.
Cô từ từ mở mắt ra, trông thấy gương mặt mơ hồ cùng đôi mắt chan chứa sự quan tâm của Trác Mộc Cường Ba, khẽ thở hắt ra một hơi: “Em… không phải em… cố ý đâu.”
Trác Mộc Cường Ba ôm chặt Đường Mẫn, nhẹ nhàng an ủi: “Anh biết mà, anh biết, không ai trách em đâu.”
Nhạc Dương và Trương Lập đứng bên cạnh thấp giọng rì rầm: “Khóc, khóc, lại khóc rồi…” Đến giờ thì tính hay khóc của Đường Mẫn đã được thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt quen thuộc hết, chỉ cần miệng cô hơi dẩu lên, mắt ươn ướt đỏ, là đã đủ khiến các thành viên trong nhóm phải đề cao cảnh giác rồi, đến cả lạt ma Á La cũng phải nói cô bé này nước mắt nhiều như nước suối, có trời mới hiểu cô lấy đâu ra nhiều nước mắt đến thế, cứ như thể mãi mãi không hết, dùng mãi không kiệt vậy. Tiếng khóc của Đường Mẫn gần như đã thành vũ khí tối thượng của nhóm học viên, cộng với cô là người nhỏ tuổi nhất ở đây, Trương Lập và Nhạc Dương đã lén đặt cho cô một cái biệt danh, gọi là “công chúa nước mũi”.
Giáo sư Phương Tân cốc vào sau gáy mỗi người một cái, đùa cợt thế nào thì cũng có giới hạn của nó.
Không ngờ, lần này biểu hiện của Đường Mẫn lại khác hẳn dự đoán của hai anh chàng Trương, Nhạc, cô không rơi lấy một giọt nước mắt nào. Trương Lập thầm nhủ: “Chẳng lẽ là vì giáo quan cũng ở đây?” Anh chàng quay đầu lại nhìn Lữ Cánh Nam, không biết cô đã tách ra khỏi nhóm từ lúc nào, một mình đứng bên bờ vực cho gió thổi. Ba Tang thì đứng ở một phía khác của vách đá ngẩng đầu lên nhìn sắc trời. Trương Lập cũng ngước nhìn lên bầu không; chỉ thấy từng đóa mây trắng lững lờ trôi quá, vươn tay ra là có thể chạm tới, nhưng vừa trông thấy điệu bộ của Ba Tang, anh liền không khỏi lạnh hết cả người: “Thời tiết quỷ quái này, bảo thay đổi là thay đổi luôn, chắc là không xuất hiện thiên tai gì nữa đấy chứ?”
Vì sự việc của Đường Mẫn, tốc độ của cả đoàn đã chậm lại. Sau khi vượt qua đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, mấy người cứ nhắm hướng Đông Nam thẳng tiến. Dọc đường núi non trùng trùng điệp điệp, đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, lưng chừng núi cây xanh rợp bóng, chân núi hoa tươi nở rộ, hồng tím đủ màu. Đây chính là cảnh quan đặc hữu của vùng này… một ngọn núi có đủ bốn mùa, mỗi núi một phong cảnh riêng. Đường núi dốc ngược, rừng sâu cây cối um tùm, thi thoảng lại có vài cánh chim chao liệng ngang trời, chốc chốc lại có dã thú chạy cắt ngang đường, bọn họ đi một mạch đến lúc trời tối, không khí mờ mịt sương mù, trời lại rải xuống một cơn mưa lất phất, đường trơn khó đi, cả đoàn liền dừng lại ở một chỗ bằng phẳng bên cạnh khe núi dựng trại qua đêm. Bốn phía xung quanh cây cối cao lớn, che kín cả bầu trời, giáo sư Phương Tân phóng mắt nhìn qua, không giấu nổi niềm cảm khái dâng trào: “Rừng bách lớn quá!”
Cây bách ở khu vực Lâm Chi khác với vân sam, hay cây bạch đàn ở rừng già Nam Mỹ, nếu cùng cao bốn mươi mét, thì cây ở châu Mỹ có thể nói là thẳng tắp mà thanh tú, còn bách khổng lồ ở Lâm Chi lại to lớn hùng vĩ. Tán cây xòe rộng như một chiếc ô khổng lồ, chiếm tới quá nửa thân cây, cành và rẽ cũng rất to lớn, trên cành cây có vô số những u những bướu hình dạng khác nhau, chính nhờ vậy mà cây bách ở đây rất dễ trèo.
Sau khi chọn xong nơi cắm trại, mọi người chia nhau làm việc. Hai người Trương Lập, Nhạc Dương phụ trách thăm dò xung quanh, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang khỏe mạnh lo việc cắm trại, chặt cây đốt lửa, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La thì dựa vào kinh nghiệm cũng như tri thức phong phú của mình tiến hành trao đổi nghiên cứu khoa học, còn Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn thì phụ trách việc hậu cần. Đường Mẫn chỉ bị kinh hoảng một lúc chứ không tổn thương gì nên hồi phục rất nhanh.
Trương Lập than vãn với Nhạc Dương: “Phải thăm dò đến tít cái gò cao kia, xa quá đi mất, còn việc của giáo quan thì nhẹ nhàng quá, chỉ cần sắp xếp mấy cái ba lô, lấy đồ ăn ra là xong rồi.”
Lữ Cánh Nam đứng sau lưng anh chàng cất tiếng: “Chưa từng nghe nói phải tôn trọng phụ nữ bao giờ hả?”
Trương Lập tức khắc run như cầy sấy, đến thở mạnh cũng không dám. Nhạc Dương thấy vậy thì cười thầm trong bụng, tiện miệng hỏi luôn: “Giáo quan, gần đây chắc không có loại dã thú nào nguy hiểm đấy chứ? Đừng có giống như lần trước…”
Lữ Cánh Nam ngắt lời anh chàng: “Sử dụng những gì các cậu học được, tự trả lời câu hỏi này đi.”
Nhạc Dương le lưỡi, lần này thời gian chuẩn bị không được đầy đủ lắm, cả bọn đều nghĩ đến chiếc máy tính chứa đủ thứ thông tin bao la vạn tượng của giáo sư Phương Tân, đoán chắc có mượn tra cứu một chút cũng không sao, chẳng ngờ hòn đảo cô độc trên cao nguyên này có hoàn cảnh địa lý hết sức đặc thù, nên đã sản sinh ra đủ các loại sinh vật kỳ quái hiếm thấy trên đời, chỉ nhìn lướt qua một lượt, các loại sinh vật nguy hiểm đã phải dùng con số hàng trăm làm đơn vị tính rồi. Trương Lập và Nhạc Dương cúi đầu ủ rũ, xem ra lần này hai người họ phải tập trung một trăm hai mươi phần trăm tinh thần đi thăm dò địa hình xung quanh đây rồi. Lữ Cánh Nam vẫn chưa yên tâm, trước khi họ đi lại nhắc nhở phải chú ý quan sát lực bám đất của cây cỏ, và mức độ xốp của thổ nhưỡng vùng này. Cô ngước mắt nhìn lên không trung lẩm bẩm: “Mưa mà lớn hơn nữa, các cậu cũng biết tình huống tệ nhất sẽ là như thế nào rồi đấy.”
Một lát sau, Trương Lập và Nhạc Dương quay lại, không phát hiện ra dã thú gì nguy hiểm, cũng không tìm được xung quanh có dấu vết của con người sinh sống.
Lữ Cánh Nam nói: “Chỗ này ở sâu trong núi, rất khó phát hiện được người sinh sống ở đây. Ăn cơm xong mọi người nghỉ ngơi cho tốt, ngày mai còn phải đi hết một ngày đường mới đến đích đó.”
Sau bữa cơm, Lữ Cánh Nam có vẻ rất thần bí kéo Đường Mẫn vào lều, Nhạc Dương tinh mắt đã ngấm ngầm lưu ý, không hiểu ra sao, vì chuyện này trừ trước đến giờ chưa từng xảy ra lần nào. Anh chàng thầm nhủ, có lẽ nào là do giáo quan ghen tuông, muốn nhân lúc hạ trại nghỉ ngơi mà báo thù Đường Mẫn chăng?
Mưa lớn dần, lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân thu dọn các thứ máy móc, cả hai đều chau mày lại. Giáo sư Phương Tân nói: “Độ dốc sườn núi phía Bắc lớn quá, thổ nhưỡng có tính acid yếu, một phần là sa thạch, rất dễ vỡ vụn. Nếu mưa lớn thêm chút nữa, chỉ sợ sẽ có đất đá trôi, hơn nữa chỗ này rừng bách phân bố rất thưa thớt, có lẽ trước đây đã từng xảy ra rồi. Đại sư xem, dời chỗ cắm trại ra phía Tây ba trăm mét liệu có tốt hơn một chút không?”
Lạt ma Á La nói: “Thế nhưng chỗ này đã là nơi bằng phẳng cao nhất trong khu vực gần đây rồi, từ lưng chừng núi xuống đến triền núi, có hai rãnh sâu tạo thành hình chữ bát, có lẽ nếu có đất đá trôi thì sẽ trôi qua hai bên trái phải của chúng ta mới đúng. Nếu dịch sang phía Tây, chẳng phải là chúng ta sẽ ở giữa quần thể thụ tán kia hay sao?
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Nói chuyện với Cánh Nam, nghe ý kiến của cô ấy thế nào đã.”
Trong lều, Đường Mẫn ngạc nhiên hỏi: “Có chuyện gì vậy, giáo quan?”
Lữ Cánh Nam ngần ngừ do dự một lúc, rồi mới miễn cưỡng nói: “Mẫn Mẫn, có thể nhờ cô giúp tôi một chuyện nhỏ không?”
Đường Mẫn nói: “Hả?”
Lữ Cánh Nam nói: “Là… là thế này, cúc áo lót của tôi không hiểu sao lại kẹt cứng lại, tôi không cởi ra được, cứ côm côm ở lưng thế nào ấy, tôi muốn nhờ cô…”
Đường Mẫn nói: “Chậc, tôi còn tưởng là vấn đề gì lớn lắm chứ, nào, để tôi giúp cô cởi áo ngoài ra đã…”
Đang chuẩn bị đứng lên, chợt nghe lạt ma Á La ở bên ngoài lều hỏi: “Có thể vào được không?”
“À… được ạ, mời đại sư vào.”
Lạt ma Á La vào trong lều, nói với Lữ Cánh Nam: “Theo kết quả quan sát của bọn Trác Mộc Cường Ba, và kết quả trắc định thổ nhưỡng của chúng tôi, nếu trận mưa này tiếp tục, chúng ta cần phải đề phòng có đất đá trôi.”
Lữ Cánh Nam nói: “Ừm, tôi biết rồi. Lúc bắt đầu cắm trại, tôi đã chọn kỹ rồi, nhìn thế núi này, nếu xảy ra đất đá trôi, chắc là sẽ xối qua hai bên chúng ta thôi. Nếu đại sư đã nói thế, tôi nay phái người trực đem đi, lưu ý quan sát cẩn thận, như vậy là cũng tương đối ổn thỏa rồi.”
Lạt ma Á La đưa mắt nhìn vẻ mặt kỳ quái của Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn, gật đầu bước ra. Mới đi được không xa mấy, đã thấy Nhạc Dương làm bộ thần bí chạy tới, hỏi: “Đại sư, hai người bọn họ trong ấy không có chuyện gì chứ?”
Lạt ma Á La nói: “Chuyện gì là sao?”
Nhạc Dương nói: “Chỉ là tôi hơi ngạc nhiên, trước đây chưa từng thấy giáo quan và cô Mẫn Mẫn thân thiết với nhau như vậy, hôm nay cô Mẫn Mẫn sợ dây thừng làm chậm trễ hành trình của chúng ta, tôi sợ giáo quan sẽ…”
Lạt ma Á La mỉm cười nói: “Giáo quan Cánh Nam không nhỏ nhen như vậy đâu. Ừm, có điều nghe cậu nói, vừa rồi tôi ở trong lều thấy nét mặt hai người bọn họ, cũng hơi kỳ quái thật.”
——————————–
1 Một vùng thuộc tỉnh Kashmir của Ấn Độ.
2 Đoạn này tác giả viết không rõ ràng, dịch giả trung thành với nguyên tác – (ND)
3 Bào Đinh là một đầu bếp rất giỏi nghề mổ trâu, ông chỉ cần một đường dao là đã có thể mổ phanh cả con trâu ra. (Nam Hoa Kinh, Trang Tử).
4 Địa hình nơi có con sông chảy qua khe hẹp giữa hai ngọn núi.