“Gọi xúc xích đi,” Gabriel đề nghị. “Ngon lắm.”
“Trông như để cho chó ấy,” Charlie nói.
“Chớ sao,” Gabriel bảo. “Vẫn ngon mà. Tụi chuột của tôi thích lắm.”
“Cho bánh bích quy và ba ly nước,” Charlie chọn giải pháp an toàn.
Người đàn ông sau quầy lên tiếng:
“Phải Charlie Bone không vậy?”
Charlie chớp mắt. Cuối cùng nó nhận ra ông Onimous, người diệt chuột. Nụ cười nhe hàm răng nhọn đã tố giác ông. Trông ông khác hoàn toàn trong cái nón trắng và tạp dề của người nấu bếp. Lần cuối cùng gặp ông, Charlie thấy ông mặc áo khoác giả lông, và áo ghi-lê nhung.
“Ông làm gì ở đây vậy, ông Onimous?” Charlie hỏi.
“Để giúp vợ tôi một tay,” ông Onimous nói. “Đây là quán cà phê của bà ấy. Toàn bộ ý tưởng là của bà ấy đấy. Hay chứ hả?”
“Tuyệt ạ,” Charlie gật. “Nhưng những con mèo lửa có ngại những vị khách khác không? Ý cháu là, chúng sống cùng với ông, phải không ạ?”
“Những con mèo lửa?” Ông Onimous nhướn đôi lông mày chổi xể lên. “Chúng thường không ở đây, cầu cho Thượng đế phù hộ chúng. Chúng quá bận rộn với các bổn phận. Đêm xuống mới đảo về để ăn chút gì đó, ngủ một chút rồi lại đi. Dĩ nhiên là trừ khi chúng cần tôi. Khi đó tôi sẽ phải đi theo chúng.”
“Ra vậy,” Charlie trả tiền đồ ăn. Giá rất rẻ.
“Rất vui gặp lại cậu, Charlie,” ông Onimous bảo. “Giờ thì bảo trọng đấy!”
“Cảm ơn ông, ông Onimous.”
Hàng người xếp hàng phía sau Charlie đang đông dần lên, vì vậy, nó cầm lấy khay của mình và tới chiếc bàn các bạn nó đang ngồi. Nó phải lách mình qua một đàn chó mới tới được chỗ. Gabriel đã chọn chiếc bàn ở ngay cạnh cửa sổ, và chúng có thể trông thấy những vị khách hàng kỳ quặc đang tiến tới quán cà phê.
Ở bàn bên, một con nhện đen bò quanh chiếc nón rơm màu đỏ. Người phụ nữ đội nón xem ra rất sung sướng với cảnh tượng này. Thỉnh thoảng, bà bẻ một mẩu đồ ăn đưa lên cho con nhện. Sợ miếng đó là con vật sống, Charlie quay đi chỗ khác.
“Anh tính cho tụi này coi cái gì vậy?” Nó hỏi Gabriel.
Gabriel lôi ra một bọc nhựa từ dưới gầm bàn lên.
“Nhìn đây!”
Cậu thò tay vô bọc, lôi ra một cái áo vải tuýt cũ nhàu và một chiếc áo chùng tách te tua.
“Đồ hóa trang của Asa,” Charlie buột miệng.
“Chính xác. Tôi thậm chí còn tìm được cả ria mép nữa.” Gabriel giơ lên một nhúm ria màu trắng. “Nằm trong con hẻm bên ngoài sân nhà tôi. Tôi đoán là gió từ Ngôi Nhà Sấm thổi tới đó. Chắc chắn Asa đã giấu mấy thứ này ở trong rừng.”
Charlie rùng mình. “Ý anh chính Asa đã ở trong rừng. Asa đội… đội lốt con gì mà nó biến được trước khi trời tối.”
Benjamin hỏi. “Nó phải cởi hết đồ ra trước khi biến thành thú chứ hả?”
Gabriel nhíu mày. “Chuyện này nghiêm trọng, Benjamin à.”
“Xin lỗi, em chỉ thắc mắc thôi.”
“Tại sao Asa lại lặn lội lên tận Khu Đồi Cao?” Charlie lẩm bẩm. “Nó có sống ở đó không?”
“Tôi không biết nó sống ở đâu,” Gabriel bảo. “Nhưng tôi nghĩ nó muốn dọa để đuổi tụi mình đi. Nó muốn chắc chắn là tụi mình không trở lại Ngôi Nhà Sấm nữa.”
“Nhưng tại sao?” Charlie hỏi dồn.
Gabriel nhún vai. “Có lẽ có điều gì đó liên quan đến anh họ Henry của cậu. Lão già ác độc đẩy anh ấy xuyên thời gian đã biết anh ấy đã trở lại. Chắc hẳn lão đang tức điên lên.”
“Tất nhiên,” Charlie đồng tình. “Lão Ezekiel Bloor ra lệnh cho Manfred và Asa phải tìm Henry. Nhưng chúng biết tụi mình – anh, em, Lysander và Tancred – sẽ bảo vệ anh ấy. Vì vậy chúng ra sức quấy phá tụi mình, làm cho tụi mình suy yếu. Anh có nói cho Lysander biết về mớ quần áo này chưa vậy?”
“Không thể liên lạc được,” Gabriel bảo. “Tôi sẽ gặp cậu ấy vào ngày mai.”
Trong lúc đó, có một bóng người thập thò nơi cửa sổ. Charlie ngước lên thì thấy Asa Pike đang nhìn chúng trừng trừng qua tấm kính. Môi thằng này trễ xuống, miệng phát ra một tiếng gừ khinh khủng. Đôi mắt vàng đảo quanh bàn và dừng lại ở túi đồ.
“Của tao đó,” nó gầm gừ. “Đưa đây cho tao, bọn nhãi!”
Sự xuất hiện của Asa gây nên tình trạng náo động trong quán. Chim chóc hoảng sợ đập cánh, kêu thất thanh, bay lên trần nhà; chó rụt đầu lại mà tru; mèo rít lên, cào cấu; thỏ chui tọt xuống gầm bàn; còn tất cả những loại thú khác thì chạy đi núp sau những chậu cây kiểng dựng quanh phòng.
“Coi bộ nó không được ai ưa cho lắm, hả?” Benjamin run run nói.
“Cứ tiếp tục đọc sách đi, Ông cậu Paton,” Charlie nhắc.
Quán cà phê đã đủ huyên náo rồi, không cần đến tài kích vỡ bóng đèn của Ông cậu nó. Đồ ăn bay tung toé khắp nơi, dĩa vỡ tan, đồ uống đổ lung tung, và các khách hàng lo lắng vấp phải những con thú đang cơn sợ hãi.
“Coi chừng,” Gabriel la. “Nó vô kìa!”
Asa vọt qua cửa và xông thẳng vô người đàn ông mặc áo in hình con voi.
“Thú?” Người đàn ông hỏi. Trông ông như một tay bảo kê chính hiệu.
Mất một lúc, Charlie đã nghĩ Asa sẽ bảo nó chính là thú đây, nhưng hắn chỉ gừ vô mặt người đàn ông.
“Thế đấy!” Vị bảo kê hét lên. “Cút!”
Ông ta tóm lấy cái cổ ngẳng của Asa nhấc lên, và lẳng nó ra ngoài vỉa hè. Asa té chổng kềnh và định nhào vô tiếp, thì vô số con chó to phóng ra cánh cửa đang mở và lao vô nó.
Asa hét lên một tiếng the thé, và chạy biến khỏi góc đường, theo sau là đàn chó vừa chạy vừa sủa. Nếu Benjamin không nhảy lên mà rị chắc vòng buộc cổ con Hạt Đậu lai, thì chắc chắn nó đã nhập vô toán rượt bắt đó rồi. Con chó bự rất thất vọng vì bị lỡ mất một cuộc vui, và cứ rên lên ư ử, cho đến khi ông Onimous thảy cho nó một cục xương đủ màu cầu vồng để gặm.
Quán Cà Phê Thú Kiểng đang vơi đi nhanh chóng. Nhiều khách hàng phải rượt theo chó của họ; những người khác, sau khi tóm lại được và xoa dịu mấy con thú kiểng của mình xong, cũng quyết định rời khỏi quán trước khi mọi việc trở nên tồi tệ hơn.
Charlie và bọn bạn ở lại giúp ông Onimous và ông bảo kê Norton Cross lau dọn đống lộn xộn.
“Thằng cha cao nhồng kia là đồ chảy thây,” Norton cằn nhằn, liếc nhìn Ông cậu Paton vẫn đang mải miết đọc sách.
“Ông ấy có thể… gây chuyện,” Charlie sợ hãi nói. “Cho nên tốt nhất đừng để ông ấy giúp.”
“Ông ấy đặc biệt đấy,” ông Onimous vừa nói vừa nháy mắt với Charlie.
“Ối, thôi đi! Hắn không phải là một người trong bọn họ đấy chứ? Thành phố này đã phải chứa quá nhiều bọn quái dị rồi.” Norton càu nhàu. “Cái thằng bị chó đuổi ấy… người ta có thể nói ngay nó là đồ quái dị. Thú vật luôn luôn biết khi nào có cái gì đó không ổn.”
Bà Silk, vừa giao hàng xong, chui ra từ một cánh cửa phía sau quầy. Theo sau bà là một phụ nữ cao lêu nghêu, tóc lưa thưa và mũi cực dài. Thật hết sức ngạc nhiên, hóa ra đó là bà Onoria Onimous. Bà là một người thân thiện, dịu dàng và có vẻ yêu trẻ con cũng nhiều như yêu thú vật.
Cuối cùng, khi quán cà phê đã đâu vào đấy, bà Silk đề nghị cho bọn trẻ quá giang về lại đường Filbert.
“Và cả ba con nữa chớ,” bà vừa nói vừa liếc nhìn Ông cậu Paton. “Nếu đó là ba của con.”
“Không phải, con không có… không, đó không phải là ba con,” Charlie nói. “Với lại tụi con còn phải tới chỗ khác nữa, cảm ơn bác.”
“Ừ vậy. Tạm biệt các cậu bé. Đi nào, Gabriel.” Bà Silk đi ra cửa.
Gabriel với tay ra và giải cứu con chuột con của nó ra khỏi túi Ông cậu Paton, nhưng Ông cậu dường như chẳng để ý. Nó lôi một con chuột nữa của mình ra khỏi túi Charlie. May quá, con này nãy giờ ngủ say sưa và chỉ ăn một cục kẹo bạc hà kẹt ở đáy túi.
“Ngày mai gặp lại,” Gabriel chào. “Sẽ thú vị cho coi. Không biết thằng Asa có bị táp chưa.”
Cậu loạng choạng bước theo sau mẹ, với cái giỏ quần áo cũ đeo dưới một cánh tay, và tay kia ôm khư khư cái hộp đựng chuột kiểng trước ngực.
Charlie vỗ vai Ông cậu và nói:
“Đi được rồi đó, Ông cậu Paton.”
Ông cậu đứng lên, mắt vẫn dán chặt vô trang sách đang đọc. Charlie lái ông ra ngoài, ở đó hai ông cháu thấy Benjamin đang kẹp một sợi xích vô vòng cổ con Hạt Đậu.
“Đề phòng nó lại nổi cơn muốn rượt theo cái gì.” Benjamin giải thích.
Họ đi bộ tới tiệm sách của cô Ingledew khá dễ dàng. Không cần vượt đèn giao thông nào. Khi đi ngang ngôi nhà thờ đồ sộ, họ nghe thấy tiếng đàn organ trầm trầm vẳng ra, và Charlie liền nghĩ tới ba nó. Ông Lyell Bone đã từng là một người chơi đàn organ cho ngôi nhà thờ lớn này, cho đến một đêm mù sương, cách đây tám năm, ông chui vô chiếc xe hơi của mình và lao xe xuống một hầm đá. Người ta không bao giờ trông thấy ông nữa.
“Ta biết mày đang nghĩ cái gì, nhóc,” Ông cậu Paton lầm bầm.
Lyell là cháu trai, và cũng là một trong những người bạn thân nhất của Ông cậu.
Có một tấm biển ghi ĐÓNG CỬA trên cửa tiệm cô Ingledew, nhưng bên trong ô cửa bày hàng lại có một ngọn đèn dịu, chiếu sáng những chồng sách trông đã cổ xưa.
Charlie nhấn chuông. Không có tiếng trả lời. Nó nhấn chuông một lần nữa. Họ nghe thấy tiếng chuông vang lên phía đằng sau cửa hàng, nhưng không có ai ra mở cửa.
“Chớ không phải bồ bảo họ hay đi chơi vào cuối tuần sao?” Benjamin nói. “Có khi họ đi thăm viện bảo tàng, hay đi coi phim, hay làm gì đó.”
“Dĩ nhiên rồi,” Charlie nói. “Mình quên mất.”
Ông cậu Paton đóng ập cuốn sách lại và thất thần nhìn trừng trừng vô cửa sổ.
“Nếu con là Ông cậu, con sẽ không làm thế đâu, Ông cậu Pa… ” Charlie vừa mới nói…
… nhưng nỗi phiền muộn của Ông cậu Paton quá sâu sắc. Với một tiếng “bụp” nhỏ, bóng đèn trong ô bày hàng tắt ngúm, và một con mưa thuỷ tinh rắc xuống những cuốn sách cổ.
“Mẹ kiếp,” Ông cậu Paton rên lên. “Cô ấy sẽ biết ngay đó là ta.”
“Cô ấy không biết đâu,” Charlie trấn an. “Cô Ingledew chắc chắn vẫn hay bị hư bóng đèn mà.”
“Hư bóng, ừ,” Ông cậu Paton rên rỉ, “nhưng không phải là nổ bóng. Cô ấy biết ngay đó là do ta làm.”
“Thôi nào, Ông cậu.”
“Ôi trời. Ôi, khốn nạn. Ta sẽ không bao giờ có thể gặp cô ấy được nữa.” Ông cậu Paton thở dài.
“Ông cậu sẽ gặp được mà. Mình về nhà đi. Tối rồi, Ông cậu sẽ không phải đọc sách nữa.”
“Đúng vậy!” Ông cậu Paton quay gót khỏi tiệm sách và sải bước về con hẻm gần nhất.
Charlie và Benjamin buộc phải chạy theo mới kịp ông, trong khi con Hạt Đậu vù lên trước, hy vọng sắp có một trò chơi.
Họ đang hối hả đi trên đường Filbert thì Ông cậu Paton bảo:
“Ta không muốn mấy bà chị của ta nghe được vụ thất bại con con này.”
“Sao các bà chị của ông lại xấu vậy?” Benjamin hỏi.
“Chuyện có từ lâu lắm rồi,” Ông cậu Paton đáp.
“Mấy bà luôn làm bất cứ điều gì lão Ezekiel Bloor muốn,” Charlie nói. “Hình như họ sợ lão.”
“Đúng vậy,” Ông cậu Paton thừa nhận. “Hắn ta là anh họ và vào lúc này hắn nắm giữ quyền lực. Các bà ấy ngưỡng mộ điều đó.”
“Mình mừng là mình không có bà cô nào cả,” Benjamin thì thầm. “Mình chuồn đây. Ba má về rồi. Chào!”
Charlie và Ông cậu Paton leo lên những bậc cấp nhà số 9, nhưng vừa vô đến trong, Ông cậu dứt khoát bước thẳng luôn lên phòng. Charlie vô trong bếp để thông báo cho ngoại Maisie và mẹ nó biết diễn biến sự việc.
“Chuyện thế nào?” Mẹ nó hỏi ngay. “Có trục trặc gì không?”
“Rất hoàn hảo,” Charlie nói dối.
“Lần sau để ngoại họ tống ông ấy cho,” ngoại Maisie vui vẻ nói. “Sẽ có thay đổi lớn cho ông Paton tội nghiệp, nếu ông ấy có thể ra ngoài vào ban ngày.”
Charlie nhận thấy bức vẽ Skarpo – thầy phù thuỷ đã biến mất.
“Bức tranh đâu rồi?” Nó hỏi.
“Mẹ không biết,” mẹ nó bảo. “Chắc nội Bone mang về phòng bà rồi.”
Nhưng nội Bone đã không làm cái việc ấy. Khi leo lên giường, Charlie thấy bức tranh Skarpo ở trên gối nó.
“Được!” Charlie nói cương quyết. “Nếu họ muốn mình đi vô, thì mình sẽ vô; nhưng mình chỉ vô khi nào đã sẵn sàng; và mình sẽ không vô nếu chưa quyết định được ông ấy có thể giúp mình như thế nào.”
Trước khi nó nhốt chặt bức tranh vô một ngăn kéo chung với vớ, Charlie liếc thật nhanh ông thầy phù thuỷ. Người đàn ông áo đen này liền quay đầu về hướng nó và nói:
“Chào mừng, hậu duệ của Vua Đỏ!”
Charlie vội đóng sập ngăn kéo lại. Nó tự hỏi không biết việc “đi vô”, như lời Ông cậu nói, và việc xin Skarpo giúp đỡ sẽ nguy hiểm tới mức nào. Nếu Henry Yewbeam bắt buộc phải được giải cứu trước khi lão Ezekiel Bloor tìm ra anh ấy, thì một chút phép phù thuỷ cũng có ích vậy.