“Hay! Lòng Trần Tướng quốc quả nhiên thẳng thắng.”
Dương Quốc Trung vỗ tay cảm thán nói: “Trong triều xẻ phái chia cánh, chính xuất vô môn, đây không phải hiện tượng nên có của thời thịnh thế, Ai cũng bảo Dương Quốc Trung ta chia bè xẻ cánh mưu tư lợi, nhưng không phải thế, ta chỉ là có lòng muốn thay đổi thời thế loạn lạc này, Thánh thượng ủng hộ cách nghĩ của ta, không biết Trần Tướng quốc…”
Nói đến đây, hắn giả đò thăm dò liếc sang Trần Hi Liệt, Ý của hắn chính là để Dương Quốc Trung hắn nắm mọi quyền triều chính, tiêu diệt cục diện ba đảng tranh đấu, chỉ là xem Trần Hi Liệt có ý theo hắn không thôi.
Trần Hi Liệt đương nhiên hiểu ý Dương Quốc Trung, có điều bây giờ bàn việc này hinh như còn hơi sớm, Hôm nay hắn đến chỉ để đường, cho Dương Quốc Trung biết ý mình, Cái gì cũng phải từng bước một, đâu thế cứ đến là vào món chính liền!
Hắn hớp một ngụm trà cười nói: “Hôm nay ta đến là có hai việc muốn thỉnh giáo Dương Thượng thư.”
Dương Quốc Chung thấy hắn không chịu trả lời theo câu hỏi của mình có phần hơi thất vọng, Có điều, hắn cũng hiểu việc này không thể nóng vội, liền tạm thời dẹp ý nghĩ câu kéo Trần Hi Liệt, nhàn nhạt nói: “Trần Tướng quốc cứ nói, là hai việc gì?”
Trần Hi Liệt hơi hơi cúi người nói: “Một việc là em trai Kinh Triệu doãn Vương Củng, cuồng ngông hoành hành, câu kết giết người, Ta từng có lời khuyến cáo Vương Củng, nhưng hắn nói việc này cần phải tránh đi, Ta cũng bị hắn làm cho hồ đồ, hắn là Kinh Triệu doãn, hắn tránh, vậy còn ai đến quản việc này? Dương Thượng thư là tiền nhiệm Kinh Triệu doãn, việc này nên xử lý thế nào đây?”
Dương Quốc Trung bỗng chốc đại hi, Trần Hi Liệt này có phải đến thỉnh giáo hắn đâu, rõ ràng là đến dâng bằng chứng của Vương Củng cho mình ấy chứ.
Vương Củng là đại tướng số một của Lý Lâm Phủ, đã được thăng làm Ngự sứ đại nhân, Kinh Triệu doãn, trường kỳ nắm chủ Ngự Sứ đài, Hắn không những là thanh đao sắc bén nhất của Lý Lâm Phủ, đồng thời còn là tấm khiêng kiên cố nhất.
Nếu có thể trừ khử người này, cũng như là chặt đứt một cánh tay của Lý Lâm Phủ, Đấy là quả gặp mặt mà Trần Hi Liệt tặng mình!
Dù cho Trần Hi Liệt nói rất qua quít, nhưng cũng đã chỉ hướng cho hắn, công việc phía dưới chỉ cần hắn đi điều tra. Vương Củng chắc chắn không thoát khỏi tay hắn được, Dương Quốc Trung chỉ nghĩ thôi đã thấy kích động, lại nói:
“Xin Trần Tướng quốc nói tiếp việc thứ hai là gì?”
Trần Hi Liệt thấy Dương Quốc Trung hiểu ý, bèn vuốt vuốt râu từ tốn nói: “Còn việc thứ hai liên quan đến An Tây Lý Khánh An.”
Mất Dương Quốc Trung không khỏi nheo lại, Vương Củng là cánh tay trai của Lý Lâm Phủ, Lý Khánh An chính là cánh tay phải, đứt đi hai cánh tay này, đời Lý Lâm Phủ coi như thế là xong, Trần Hi Liệt này quả thật lợi hại.
“Trần Tướng quốc xin cứ nói, An Tây Lý Khánh An thế nào?”
“Hôm qua ta nghe nói Dương Thượng thư đề ra việc dời ba vạn quân hộ vào An Tây, Kiến nghị này ta thấy có phần không ổn.”
“Không ổn thế nào?”
“Không biết Dương Thượng thư đã có nghĩ qua, binh lực của An Tây và Bắc Đình cộng lại đã bốn vạn hai ngàn người rồi, năm thứ tám Thiên Bảo đã chuẩn cho mỗi nơi chiêu thêm binh một vạn.
Vậy đã là sáu vạn bốn ngàn người, năm ngoái lại điều thêm ba vạn quân Thiên Uy đi Toái Hiệp, vậy là chính vạn bốn ngàn người, Bây giờ Dương Thượng thư lại đề nghị thêm ba vạn quân hộ, Vây mỗi quân hộ cứ xem như là một người rưỡi, tính ra được bốn vạn năm ngàn người.
Và còn chưa kế quân Hồ binh Phồn, và quân hộ dư thừa, Tổng binh lực An Tây đã không dưới mười năm sáu vạn, Nếu Lý Khánh An gan to một chút, tự tiện mộ binh tại Hà Trung, ta xem rất có khả năng lên đến hai mươi vạn, Hai mươi vạn binh lực! Điều này khiến ta nghĩ đến Đổng Trác Tây Lương.”
Dương Quốc Trung giật mình, hắn còn chưa nghĩ sâu xa đến thế, Hắn phản ứng cực nhanh, lập tức hiểu ra ý của Trần Hi Liệt, vội thăm dò hỏi: “Ý của Trần tướng quốc là, Lý Khánh An sẽ có lòng bất thần?”
Trần Hi Liệt thấy Dương Quốc Trung còn chưa hiểu thấu ý mình, liền mỉm cười từng bước ngợi ý: “Lý Khánh An liệu có lòng bất thần hay không ta không rõ, nhưng chúng ta là thần tử, giúp thánh thượng giải ưu là bồn phận của chúng ta.”
Dương Quốc Trung bỗng chốc hiểu ra, dùng việc này đề lật đồ Lý Khánh An, thật là thượng mưu!
Hắn trầm tư một lúc, bỗng cười nói: “Nói như thế này, ta sẽ khuyên thánh thượng cho chuyển ba vạn quân hộ vào An Tây, không ngờ lại chó ngáp phải ruồi.”
“Không dám! Dương Thượng thư có tấm lòng thừa tướng, khiến lão phu bái phục vạn phần.”
Hai người nhìn nhau cười hà hà.
…
Tây Tào quốc, Lý Khánh An soái lĩnh một vạn hậu quân cũng đã vượt qua sông Syr Darya (* Dược Sát Thủy) từ từ tiến gần đô thành Tây Tào.
Lúc cách thành chưa đến năm mươi dặm, hắn bèn cho dừng lại, Lý Quan Bật và đại quân Đại Thực đã đối nhau năm ngày, hai bên đều không giao chiến, Lý Quang Bật cũng không vây thành, chỉ đóng trại ngay ngoài thành mười dặm, kiên nhẫn đợi quân Đại Thực ra giao chiến.
Lý Khánh An cũng không can thiệp việc dùng binh của Lý Quang Bật, lúc đầu hắn còn lo lắng Lý Quang Bật chưa đủ chín chắn, nhưng biểu hiện xuất sắc của hắn tại trận chiến Bạch Thủy đã dẹp bỏ ý nghĩ này của Khánh An, Lý Quang Bật này vẫn là Lý Quang Bật trong lịch sử, cho nên trận chiến Tây Tào này hắn quyết định buông tay cho Lý Quang Bật tự phát huy.
Trong đại chướng, Khánh An đang ngồi trước sa bàn nghị sự cùng mấy viên đại tướng của mình về những gì sắp xảy ra trong trận chiến Tây Tào quốc.
Nên nói rồi trận chiến này do họ phát động đi đánh, vượt qua sông Syr Darya đến đây, kéo chiến tuyến đến địa bàn không chế của đối phương,tính chủ động của chiến cục trong tay họ.
Nhưng cũng vì thế mà bọn họ lại phải đối diện với một vấn đề, đó là an nguy hậu phương, Liệu quân Đại Thực có rút về hậu phương của họ tập kích lương thảo, và thành trì?
Câu trả lời là chắc chắn rồi! Từ cách tác chiến giữa quân Đại Thực và Cao Tiên Chi, tập kích Toái Hiệp thành liền có thể thấy được kỹ xảo dùng binh của chúng.
Vì thế việc bào vệ lương thảo quân Đường là việc rất quan trọng, Trước mắt nơi để lương thảo của quân Đường là Cự Chiến Đề, Nơi đấy có đủ lượng lương thức tác chiến trong ba tháng cho quân Đường, có tất cả sáu ngàn quân trú thủ.
Nhưng bản thân Đại Thực cũng gặp phải, chiến tuyến của chúng cũng kéo đi rất dài, phòng vệ chư quốc Túc Đặc, an nguy mỏ bạc Ba Tất, Những điều này đều đủ quân Đại Thực đau đầu, có điều bọn chúng còn có sau vạn quân Syrian mà Tô Mạn Nhĩ dẫn đến nên đỡ đau đầu hơn quân Đường.
Lý Khánh An dùng gậy gỗ chi thành vào Ngân Thanh nói với mọi người: “Các vị, căn cứ theo tình báo của ta, do quân Đại Thực nội chiến, Tất Mã Nhĩ Hẳn đã ba năm nay không nhận được bạc từ Ngân Thành vận chuyển đến.
Cũng có nghĩa là, trong Ngân Thành cực có khả năng đang chứa bạc tàng trữ của ba năm nay, Nếu chúng ta có được số bạc này, chắc chắn sẽ có thể đề cao vị trí của An Tây trong Đại Đường, hiệu quả khó lường được.
Ý ta là chúng ta chia quân đi đánh Ngân Thành, đoạn số bạc tồn ba năm này, Ta đã phái Xích hầu đội đến đấy thám thình tình hình, nhưng thời cơ chớp nhoáng, nếu đợi có tình báo đến mới ra tay e rằng đã muộn, Các vị thấy thế nào?”
Lúc này, Lý Tự Nghiệp đi lên nói: “Cách nghĩ của Đại tướng quân cố nhiên là tốt, nhưng có mấy điểm chưa xác mình rõ ràng, thứ nhất, chúng ta sẽ phái bao nhiêu quân đi đoạt Ngân Thành?
Nếu ít thì liệu có làm được gì? Nhưng phái nhiều quá sẽ làm yếu đi binh lực hậu quân, tăng áp lực cho Lý Quang Bật, Hơn nữa, ngân thành trú quân bao nhiêu?
Nếu đánh trận, nô lệ Ngân Thành có ảnh hưởng mạnh không? Có lợi hay bất lợi cho chúng ta? Đại tướng quân, những vấn đề này phải làm rõ đã, Thuộc hạ vẫn nghĩ tạm thời không nên xuất binh sẽ tốt hơn.”
Kỳ thực với vấn đề này Lý Khánh An đã ngẫm nghĩ rất lâu, nếu đợi hắn đánh bại quân Đại Thực và bắt nô lệ khai thác mỏ, vậy chí ít cũng phải đợi hai ba năm sau mới dần dà có chút đinh tài của.
Nhưng trong thời gian này sẽ có rất nhiều việc hắn không thể làm, Nếu có được số bạc này của người Đại Thực, hắn có thể phát triển vượt bậc, trong vòng hai ba năm ngắn ngủi đã có thể đặt một căn cứ vững chắc.
Dù không biết bốn năm sau An sứ chi loạn có nổ ra như đúng trong lịch sử, nhưng chi ít An Lộc Sơn vẫn tại vị, Hắn tại Phạm Dương đã mười mấy năm nay, muốn điều hắn đi tuyệt không phải việc đơn giản, Dự định xấu nhất mà hắn có thể nghĩ ra là An sứ chi loạn vẫn bùng nô như lịch sử, thậm chí có khả năng sớm hơn.
Việc này không thể nói rõ với các đại tướng, nên bọn Lý Tự Nghiệp không thể hiểu được tính cấp bách của hắn với số bạc này cũng dễ hiểu thôi.
Nghĩ đến đây, Lý Khánh An gật gật đầu nói: “Tự Nghiệp lo lắng là có lý, ta định để Lệ Phi Nguyên Lễ ở Cự Chiến Đề đi tiến công Ngân Thành, nhưng phải thăm dò tình hình trước đã, Nếu tiến công bất lợi thì rút về lại, còn phòng ngự ở Cự Chiến Đề, ta có thể để Thạch Quốc đến tiếp quản.”
Nói xong, hắn đảo mắt nhìn quanh mọi người, thấy mọi người không có ý kiến gì khác, hắn bèn quả quyết hạ lệnh: “Truyền lệnh của ta, mệnh cho Lệ Phi Nguyên Lễ soái lĩnh bôn bộ năm ngàn người lập tức đến Ngân Thành, phòng ngự của Cự Chiến Đề sẽ do Thạch Quốc hỏa tốc tiếp quản.”
Lệnh vừa ban, bỗng chốc ở ngoài vang đến tiếng bước chân vội vã, có binh sĩ lớn tiếng bẩm báo: “Đại tướng quân, quân đội Đại Thực đã ròi thành nghênh chiến.”
…
Cửa thành Tây Tào đang mở to tiếng trống kinh thiên động địa đùng đùng vang dội, Tề Nhã Đức cho lưu ba ngàn quân thủ thành, đích thân hắn soái lĩnh hai vạn bảy ngàn quân hỗn hợp rời thành.
Cái gọi là quân hỗn hợp là chi ngoài binh sĩ Hô La San, ngoài ra còn có quân đội chư quốc Túc Đặc.Lần này hắn dẫn ba vạn quân đến, hai vạn binh sĩ Hô La San, một vạn của Tát Mã Nhĩ Hẳn, nhưng không có quân trường thương của Mã Kỳ Đốn, Đội quân tinh duệ ấy vẫn còn ở Tát Mã Nhĩ Hẳn. do chũ soái A Bố Mộc Tư Lâm đích thân soái lành.
Kỳ thực hôm nay rời thành ửng chiến không phải bổn ý của Tề Nhã Đức, Ý hắn vốn là kéo dài thời gian, để làm hao mào ý chí và sĩ khí quân Đường, cứ câu kéo vài tháng thế này, vấn đề cung ửng vật tư của chúng sẽ xuất hiện vấn đề, nhưng có điều đã bị chũ soái Mộc Tư Lâm của chúng phản đối.
Sự tranh giành quyền lực của lành đạo cấp cao Đại Thực cuối cùng đã ảnh hưởng đến trận chiến tranh này, Mạn Tô Nhĩ lợi dụng cơ hội trấn áp người Túc Đặc đã phái quân đội của mình đến các thành, và thông qua việc chiếm lĩnh các thành này đã nắm chặt các nước Hà Trung trong tay.
Chư quốc Túc Đặc chí ít có một nửa đã không là địa bàn của A Bố Mộc Tư Lâm, Điều này khiến Mộc Tư Lâm rất ư là bị động, Để cứu vãn cục diện, chỉ có càng sớm kết thúc chiến tranh càng tốt, thế mới có thể khiến Mạn Tô Nhĩ có thể rút về Damascus (*Đại Mã Sĩ Cách).
Cho nên bất luận thế nào hắn cũng không thể đồng ý việc Tề Nhã Đức thũ thành ba tháng, giữ chân quân Đườngư, Ba tháng không đánh trận, chỉ sợ việc ấy không làm quân Đường suy sụp mà là làm hắn bị suy sụp, Không những không thể chờ ba tháng, mà phải càng nhanh khai chiến càng tốt, Hắn liền cho Tề Nhã Đức kỳ hạn, trong vòng mười ngày đuôi quân Đường qua khỏi sông Syr Darya.
Từng đội quân Đại Thự từ Tây Tạo xuất thành, bọn chúng lưng đeo trường kiếm, tay cằm trường mâu và thiết đôn, chân mang hia da, thân mặc giáp da, và khoat chiếc áo choàng màu trắng của quân đội, cùng đầu quấn khãn trắng, Trong đó có kỵ binh, cũng có bộ binh, đội ngũ chỉnh tề, đạp từng bước mạnh mẽ thăng tiến.
Quân đội của A Bạch Tư thừa kế được thành quả cải cách quân đội của Mạch Nhĩ Vương vương triều Oa Mã Á; bỏ cách đánh hỗn hợp chia làm tiền phong, hậu phong, trung quân, cánh phải, cánh trái của Bái Chiêm Đình, mà dùng chế độ đại độ mà người Đại Thực gọi là Khố Nhĩ Đô Tư, Kỳ thực đây cũng là chế độ quân đoàn độc lập, một vạn người làm một quân đoàn, và phân làm năm cấp, mỗi quân đoàn đều độc lập tác chiến.
Đương nhiên, mục đích làm như thế không phải vì có thể tác chiến hữu hiệu cùng quân địch, mà chỉ vì có thể khống chế biên cương rộng lớn hữu hiệu hơn.
Cùng với tiếng trống ngày càng dồn dập, chủ tướng Tề Nhã Đức đã xuất thành, Hắn chinh lại mũ giáp, ánh mắt lạnh lùng nhìn về đại doanh thấp thoáng phía xa của quân Đường, Trận chiến này chỉ để thăm dò, thực lực so sánh giừa quân Đường và Đại Thực sẽ được lộ rõ trong trận này.
Hắn từ từ rút kiếm ra chỉ thẳng vào doanh trại quân Đường nghiêm giọng nói: “Xuất chiến!”
Hai vạn bảy ngàn người chia làm năm phương trận đồng đều phóng thẳng tiến quân về doanh quân Đường cách đây mười dặm, Mặt đất bỗng chốc dần bị phủ lên một tấm thảm đen.
“Tù ùuuuuuuuuu… Tiếng tù và trầm cắt qua mặt đất u ám.