…
Lúc Tạ Dung Dữ viết lá thư thứ hai cho Tạ Trinh là năm Chiêu Hóa thứ mười hai.
Y lớn lên trong cung, bảy tuổi học văn cùng Chiêu Hóa đế, chín tuổi soạn sách ở Hàn lâm, mười hai tuổi đã theo chân lão thái phó đến Hàn lâm dạy học, tranh biện với người.
Năm mười bốn tuổi lần đầu tiên y tham chính, ban đầu cũng rất ngây ngô, nhưng y trưởng thành rất nhanh, chỉ mất hơn một năm đã dần thuận buồm xuôi gió.
Năm Chiêu Hóa thứ mười hai, Chiêu Hóa đế quyết định sửa đền Tiển Khâm thành Tiển Khâm Đài, cho triệu Tạ Dung Dữ đến: “Việc xây dựng Tiển Khâm Đài, trẫm giao cho khanh phụ trách.”
Tạ Dung Dữ chợt ngẩng đầu: “Bệ hạ giao cho thần?”
“Sao, không muốn à?” Chiêu Hóa đế hỏi.
Không phải Tạ Dung Dữ không muốn, y chỉ thấy ngạc nhiên.
Mười bảy năm qua, y chưa bao giờ rời khỏi kinh thành, cứ ngỡ sẽ bị vây hãm mãi trong bốn bức tường thành cho đến hết cuộc đời.
Y nhanh chóng viết thư cho Ôn Thiên, sau đó khởi hành lên đường.
Khi tới Thần Dương, y mới phát hiện Ôn Thiên mất vợ, đang khẩn trương về quê nhà trông linh cữu vong thê, nhẽ ra y không nên đến làm phiền vào lúc này.
Tạ Dung Dữ thành khách không mời mà tới, mắt mở trân trân nhìn Ôn Tiểu Dã bỏ nhà ra đi mà không cách nào can ngăn. Y chạy theo ra khỏi căn nhà, cất tiếng gọi: “Cô nương.”
Nàng chỉ ngoảnh đầu thoáng nhìn qua y, rồi cầm thanh kiếm chậm rãi bước xa, biến mất giữa miền sơn dã.
Đằng sau vang một tiếng thở dài: “Đó là Tiểu Dã con gái ta.”
Nói đoạn, như thấy được vẻ ngượng ngùng trong mắt Tạ Dung Dữ, bèn khuyên: “Tính nó là vậy đấy, hồi bé lang bạt ở ngoài với sư phụ quen rồi, nói đi là đi luôn. Điện hạ đừng để bụng, nó đi nhiều nơi lắm, cũng có mấy ngón võ trong người, không gặp nguy hiểm đâu.”
Nam nhi độ thiếu niên ra ngoài du học là chuyện thường ở Đại Chu, nhưng nữ nhi dẫu sao vẫn nên ở trong chốn khuê phòng, có lẽ cả đời cũng không được bước ra ngoài cửa lớn.
Trông tiểu cô nương kia cùng lắm là mươi ba tuổi, Tạ Dung Dữ rất đỗi kinh ngạc khi nàng có thể tùy ý đi muôn nơi.
Về sau y nhớ lại, sở dĩ bóng hình áo xanh trong núi Thần Dương in dấu đậm sâu trong lòng y như thế, ban đầu là vì áy náy, đi cùng với đó là khiếp sợ; dần về sau khi y đến núi Bách Dương, nghe Ôn Thiên kể vô vàn câu chuyện ít ai được biết của Ôn Tiểu Dã, dần dà lại chuyển thành tò mò.
Đầu đông năm Chiêu Hóa thứ mười hai, Tạ Dung Dữ ngồi trong phòng sách nơi trông coi núi Bách Dương, nhấc bút viết thư.
“Phụ thân kính yêu.”
“… Con ngẫu nhiên gặp một cô gái trong núi Thần Dương, thuở bé được cha dạy học, sau theo Nhạc tiểu tướng quân luyện võ, rất có bản lĩnh, chân đi muôn phương, thân tâm vô ưu, bởi vậy thích đi khắp nơi. Dung Dữ bèn tự ngẫm, những năm nay mình vùi trong cung cấm, phải chăng là tự mình xích mình, mà cứ lầm rằng ngựa xe trói buộc. Phụ thân thường bảo Dung Dữ: lòng ở tứ bề, thân đi bốn phương, chữ tâm đặt trước nghĩa là nhân, chữ thân để sau nghĩa là quả. Giờ đây Dung Dữ đã giác ngộ, đợi khi xây dựng Tiển Khâm Đài, hoặc khi cáo biệt thánh thượng, rời khỏi kinh thành…”
…
Tiếc thay Tạ Dung Dữ không được toại nguyện.
Mồng chín tháng bảy năm Chiêu Hóa thứ mười ba, một tiếng “tháo dỡ” trở thành cơn ác mộng từ ấy về sau bủa vây y.
Y mắc tâm bệnh, ngày nào cũng gặp ác mộng, không dám ngửa mặt nhìn thẳng lên trời xanh.
Nếu nói gông xiềng trên người Tạ Dung Dữ trước đây là sĩ tử nhảy sông quàng lên người y, vậy thì hôm nay, chính tay y lại đeo gông lên người mình.
Dù y có đeo thêm mặt nạ, biến thành Giang Từ Chu, thì chẳng qua cũng chỉ là trốn tránh.
May thay thời gian chầm chậm trôi đi, bệnh tình thuyên giảm phần nào, Tạ Dung Dữ biết mình còn chuyện chưa hoàn thành, mùa thu năm Gia Ninh thứ ba, y nhận được lá thư Chiêu Hóa đế để lại cho y từ tay Triệu Sơ.
Mùa thu năm Gia Ninh thứ ba là một mùa rối ren, Tiển Khâm Đài dự tính sẽ được xây lại, triều đình lần nữa tra rõ nguyên nhân đài sụp đổ, Đại Lý Tự truy bắt một đám nghi phạm, trong số đó có Thôi Hoằng Nghĩa.
Tạ Dung Dữ nghĩ tới tình hữu nghị của Ôn Thiên, Thôi Hoằng Nghĩa cùng những thợ khác, nhân hôn ước giữa Giang Từ Chu và Thôi Chi Vân, lén cứu Thôi thị một mạng.
Vậy mà đến đêm tân hôn, y uống say chuếnh choáng, lúc vén khăn voan, giương mắt nhìn kỹ, lại nhìn thấy nàng.
Là tiểu cô nương y từng gặp một lần trong núi Thần Dương.
Là người con gái được y khoanh vòng đỏ chói trên công văn truy nã.
Biết bao năm trôi qua, hình bóng nàng vò võ mặc váy xanh ngoảnh đầu lại vẫn ghi tạc nguyên vẹn trong lòng y.
Tạ Dung Dữ đã thôi nghĩ suy miên man về quá khứ và hiện tại từ lâu lắm rồi.
Nhưng giờ khắc này, như định mệnh sắp đặt, y bỗng nhớ đến trước khi Tiển Khâm Đài sụp đổ, nhớ đến lá thư y viết cho Tạ Trinh lúc trong núi Bách Dương cùng với lời cầu mong bé nhỏ muốn rời kinh đô khi ấy. Thậm chí y còn nhớ đến ngày xưa hơn, trên lầu Xuân Nhật, Tạ Trinh chỉ tay về phương xa nói: “Nam nhi Tạ gia, lòng ở tứ bề, thân đi bốn phương.”
Số mệnh đang chạy theo vòng tuần hoàn, gặp Tiểu Dã, y bỗng có thêm can đảm vùng khỏi xích xiềng.
Hơn nửa tháng sau khi Tiểu Dã được gả vào Giang phủ, bệnh cũ của Tạ Dung Dữ có tái phát một lần.
Y đứng ngoài Chiết Chi Cư, muốn thử xem mình có đối mặt được với sụp đổ trong quá khứ hay không, tiếc thay, y thất bại.
Ba ngày ba đêm ngụp lặn trong mộng, lúc y quay về với ác mộng cũ, song cũng có lúc cũng được mơ những giấc bình yên.
Trong mơ, y ngồi trước bàn viết thư cho Tạ Trinh, tiếc là sau câu “Phụ thân kính yêu”, y lại lưỡng lự không viết tiếp được nữa.
Trong cơn mơ hồ, có một bóng người bước lại gần y, bất cần như một cơn gió: “Nghe mẫu thân con nói, con mới vừa thành thân gần đây, còn lĩnh hàm Đô Ngu hầu Huyền Ưng Ti, bao nhiêu là chuyện trọng đại, sao không kể cha nghe?”
Tạ Dung Dữ ngần ngừ chốc lát: “Con không rõ rốt cuộc mình đang nghĩ gì.”
Tạ Trinh cười: “Đừng nóng vội, có lẽ ngay cả chính con cũng không biết, rằng con cháu Tạ gia có một thiên phú rất đặc biệt, đó là xưa nay luôn tỏ tường lòng mình. Đến khi con bước về phía trước, tự khắc sẽ tìm thấy ánh sáng hy vọng. Khi ấy, con hẵng viết thư cho cha, cha sẽ đợi.”
…
Hoàng hôn buông, mưa ngoài cửa sổ dần thưa hạt, ở trên bàn, một lá thư đã viết xong.
Tạ Dung Dữ chấm mực, cất bút viết đoạn cuối cùng: “Phụ thân, nửa năm trôi qua trong chớp mắt, Hà thị đã đổ, thánh thượng nhân dịp tốt này trải đường lui cho con. Con đường trước mắt tuy gian hiểm, cũng may xa cách nửa năm được ngày trùng phùng, lận đận bôn ba, lòng con đã định, đợi khi mây vén thấy mặt trời, tất sẽ đưa thê tử trở về quê nhà, bái lạy mồ phần.”
Trên giường vang lên tiếng Thanh Duy nói mớ, đúng lúng ngoài phòng có tiếng gõ cửa, Triêu Thiên nói: “Công tử, đã tra được dược liệu ông cháu Diệp thị tìm là gì rồi, là Hải phiêu tiêu ạ.”
Vậy là Tạ Dung Dữ gác bút, bước ra cửa. Ngoài khung cửa sau lưng, mưa tan mây hé, rợp ráng chiều soi.
KẾT THÚC