Rạng đông Hành Giả thức dậy, dụi con mắt, khen rằng:
– Thiệt là thuốc tiên, con mắt muốn tỏ hơn khi trước. Ngó tư bề không thấy nhà cửa, có liễu cao hòe lớn mà thôi, thấy hai anh em ngủ trên đám cỏ.
Bát Giới thức dậy hỏi rằng:
– Anh ngồi tưởng giống gì đó?
Hành Giả nói:
– Em hãy nhướng con mắt lên mà coi.
Bát Giới ngó quanh quất, thất kinh ngồi dậy hỏi rằng:
– Con ngựa mình ở đâu?
Hành Giả nói:
– Vậy chớ vật gì buộc nơi gốc cây đó?
Bát Giới hỏi:
– Còn gánh đồ ở đâu?
Hành Giả nói:
– Vậy chớ giống gì trên đầu nằm?
Bát Giới nói:
– Ông chủ nhà tệ quá. Dọn đồ đi mà không kêu chúng ta. Theo ý tôi bàn, chắc là trốn nợ. Sợ xóm riềng hay mà cản, nên đi lúc canh ba. Còn mình ngủ như chết, người dở nhà mà cũng không hay. Thiệt là tệ lắm.
Hành Giả cười ngất mà nói rằng:
– Ðừng có nói bậy, hãy coi tấm giấy trên nhánh cây.
Bát Giới gở lá thiệp, có bài thơ tứ tuyệt như vầy:
Non yêu ai dám đến làm nhà,
Hộ Pháp Già Lam biến hóa ra
Giúp thuốc cho người đà sáng mắt,
Gắng cóng trừ quỷ chớ dần dà.
Hành Giả nói:
– Mấy chú thần vặt. Từ khi ta đặng Long mã, không rảnh mà kêu tên. Nay lại hiện hình làm lối!
Bát Giới nói:
– Anh hay buông lời cao cách, thần nào lại chịu anh kêu tên?
Hành Giả nói:
– Ngươi không biết, để ta nói cho mà nghe: Hộ Pháp, Già Lam, Lục Ðinh, Lục Giáp, Yết Ðế, Công Tào, đều vâng lệnh Quan Âm bồ tát, theo bảo hộ thầy. Từ ngày ở núi Xà Bàn, ta có kêu cho biết đủ thiếu. Sau có em giúp việc, chẳng cần dùng các thần ấy, nên chẳng kêu tên.
Bát Giới nói:
– Chư thần đã vâng lệnh Phật mà phò hộ, nên chẳng dám hiện hình. Người mới hóa nhà giúp thuốc cho anh, còn trách móc sao phải. Hãy lo tìm phương thế mà cứu thầy.
Hành Giả nói:
– Ðây đến động Huỳnh phong gần lắm. Em hãy coi đồ và giữ ngựa, để ta đi dọ tin thầy, đặng tranh đua với nó.
Bát Giới nói:
– Phải, anh hãy thăm tin cho chắc thầy sống thác. Giả như thầy thác thiệt, thì chúng ta lo việc làm ăn. Bằng thầy hãy còn, thì hết sức hết lòng bảo hộ.
Hành Giả nạt rằng:
– Ngươi đừng nói bất lợi, nghe ra như tiếng rủa thầy. Thôi đừng nói xàm, ta đi đó.
Nói rồi nhảy một cái, đã tới động Huỳnh phong. Thấy trong còn ngủ mê nên chưa mở cửa, Hành Giả niệm chú, hóa ra một con muỗi bông, hai cẳng có rằn có rực, bay vào trong động, thấy tiểu quỷ đương ngủ mê.
Chúa động dậy kêu hết thảy, rồi nói rằng:
– Chúng bây coi cửa nẻo cho tử tế. Sợ trận gió thổi Hành Giả không chết, chắc là tìm đến chẳng không.
Hành Giả nghe rồi, bay ra thấy cửa khóa chặt lắm. Liền chun lỗ hở ra ngoài. Thấy vườn rộng mênh mông, giữa vườn có cây trụ. Trên cây trụ ấy có trói thầy mình.
Hành Giả thấy thầy khóc thảm thiết, liền đậu trên đầu mà kêu rằng:
– Bớ thầy, bớ thầy.
Tam Tạng biết tiếng nói rằng:
– Ngộ Không ôi! Ta trông gần chết đi mà thôi, ngươi ở đâu mà kêu ta đó?
Hành Giả nói:
– Tôi ở trên đầu thầy, xin thầy chớ nóng. Bữa nay tôi quyết bắt cho đặng yêu quái mà cứu thầy ra. Thôi tôi đi đó. Nói rồi kêu ve ve bay vào động, thấy Huỳnh Phong ngồi chính giữa mà điểm binh yêu.
Lại có Tiểu yêu vào báo rằng:
– Tôi đi tuần đến cụm rừng, thấy hòa thượng mỏ dài tai lớn. May tôi chạy lẹ, bằng không đã bị bắt rồi. Còn ông hòa thượng khỉ hôm qua đi đâu không biết.
Huỳnh Phong nói:
– Có khi bị gió thổi chết rồi, bằng không thì đi viện binh chỗ khác.
Tiểu yêu nói:
– Nếu gió thổi nó chết, thì chúng ta may biết dường nào. Lại e còn sống đi viện thần binh nào ta cũng không sợ. Hành Giả đậu trên trinh, nghe rõ rất mừng. Liền bay ra xa xa, hiện hình về kêu Bát Giới.
Bát Giới hỏi:
– Anh thám nghe tin làm sao đó? Tôi ở đây mới rượt tiểu yêu.
Hành Giả cười rằng:
– Em thiệt có tài lắm!
Liền thuật câu chuyện cho Bát Giới nghe, rồi nói rằng:
– Nó đã khai tên, ngặt không biết Linh Kiết bồ tát ở đâu mà thỉnh.
Anh em đương bàn luận, xảy thấy ông già đi ngoài đường.
Bát Giới ngó thấy, nói với Hành Giả rằng:
– Lời tục nói: Muốn thông việc dưới núi, thì hỏi kẻ đi đường. Anh hỏi thử ông già, họa may có biết chăng?
Hành Giả cất thiết bảng, chạy ra đường cái, bái ông già mà nói rằng:
– Chúng tôi đi thỉnh kinh, thầy tôi rủi bị yêu bắt. Xin ông làm ơn chỉ giúp, ông Linh Kiết bồ tát ở nơi nào?
Ông già ấy nói:
– Ông Linh Kiết ở hướng Nam, cách ba ngàn dặm, có hòn núi tên Tiểu Tu Di. Trong núi có kiểng chùa, là chỗ Linh Kiết bồ tát ở. Các ông đi thỉnh kinh của ngài hay sao?
Hành Giả nói:
– Không phải thỉnh kinh của ngài, thiệt cậy ngài một chuyện. Song không biết ngỏ nên phải hỏi đường.
Ông già ấy chỉ hướng Nam mà nói rằng:
– Cứ đi như nầy thì tới.
Gạt Hành Giả ngó theo phía đó, ông già ấy hóa gió bay đi.
Hành Giả ngó lại thấy bên đường có một miếng giấy có đề bốn câu thơ rằng:
Nói lại Tề Thiên đặng rõ tình,
Ông già ấy thiệt Lý trường Canh,
Phật cho nhà gã Phi long trượng,
Linh Kiết đem truyền máy phật binh.
Hành Giả cầm thiệp dạy lại, Bát Giới nói rằng:
– Anh ôi! Chúng ta mấy bữa rày rủi quá, hay thấy qủy ban ngày. Ông già hóa gió là ai vậy?
Hành Giả đưa thiệp cho Bát Giới.
Bát Giới xem lá thiệp rồi hỏi rằng:
– Lý Trường Canh là ai đó?
Hành Giả nói:
– Ấy là danh hiệu ông Thái Bạch kim tinh.
Bát Giới nghe rõ, quỳ lạy thinh không mà nói rằng:
– Ân nhân tâu cứu tôi năm xưa, phải không ắt chẳng còn tánh mạng.
Hành Giả nói:
– Em đừng ló đầu ra, hãy trốn trong rừng mà coi đồ giữ ngựa. Ðặng ta đi tìm Phật cứu thầy.
Bát Giới nói:
– Tôi biết mà! Tôi đà học phép rùa, cứ nhịn thua rút cổ. Anh đi lo việc ấy cho mau.
Hành Giả dùng phép Cân đẩu vân, nhảu qua chánh Nam một cái. Thấy có hòn núi, hào quang chiếu sáng lòa. Nhắm nghía cảnh chùa tốt lắm: Hương bay ngui ngút, chuông gióng thanh tao, Hành Giả đi tới chùa, thấy thầy đạo sĩ đương niệm Phật.
Hành Giả bái và hỏi:
– Ðây phải là chùa Linh Kiết bồ tát chăng?
Ðạo sĩ đáp rằng:
– Phải, mà tìm có chuyện chi?
Hành Giả nói:
– Xin ông làm ơn vào bạch cùng bồ tát rằng: Tôi là học trò Ðường Tăng Tam Tạng, tên tôi là Tôn Ngộ Không, khi trước có làm Tề Thiên Ðại Thánh, nay có chuyện cần cấp, xin vào ra mắt bồ tát bây giờ.
Ðạo sĩ cười rằng:
– Danh hiệu nhiều quá tôi có nhớ ở đâu!
Hành Giả nói:
– Thôi ông nói tắt như vầy: Tôn Ngộ Không là đệ tử Ðường Tăng xin vào ra mắt.
Ðạo sĩ vào báo, Linh Kiết sửa áo mão ra tiếp nghinh. Rước Hành Giả vào ngồi, truyền đệ tử đem trà ra đãi.
Hành Giả:
– Tôi có chuyện cần cấp không rảnh mà uống trà. Thầy tôi bị Huỳnh Phong bắt rồi, nên đến nhờ ơn Bồ tát.
Linh Kiết Bồ Tát nói:
– Phật Như Lai có cho ta hai phép, là Phi Long trượng, với Ðịnh Phong châu đặng ở đây mà trấn nó. Khi trước ta đã bắt đặng, lại dung cho nó tu hành, ngày nay nó phạm đến lịnh sư, làm cho ta mang tội.
Nói rồi lấy hai phép, đằng vân đi với Ngộ Không.
Khi tới núi Huỳnh Phong, Linh Kiết biểu Hành Giả rằng:
– Tôi ở trên mây, Ðại Thánh xông vào khiêu chiến, dụ nó ra khỏi động, thì tôi bắt tức thì. Ðã có Ðịnh Phong châu ở đây, chắc nó làm gió vàng không được.
Hành Giả y lời xách thiết bảng xông vào phá cửa.
Tiểu yêu vào phi báo.
Huỳnh Phong nổi giận nói rằng:
– Con khỉ nầy vô lễ quá! Thế nầy dung nó chẳng đặng rồi. Ta ra trận, quyết thổi cho nó chết.
Nói rồi cầm chỉa ba ra cửa động, nhảy đâm Hành Giả tức thời.
Hành Giả liền đánh lại.
Ước chừng ít hiệp, Huỳnh Phong day mặt về hướng Tốn, mà hớp gió Ðông Nam, xảy thấy Linh Kiết ở trên mây, quăng gậy Phi Long xuống, hóa ra con rồng vàng tám móng, chụp đầu Huỳnh Phong đập vào núi, liền hiện nguyên hình là con chuột lông vàng nghệ.
Hành Giả giá thiết bảng muốn đập óc cho rồi, Linh Kiết cản rằng:
– Ðại Thánh đừng giết nó. Nguyên nó là con chuột cống, tu dưới chân núi Linh Sơn. Song nó uống dầu lưu ly trước bàn Phật, nên đèn ấy lu hoài, nó sợ Phật Kim Cang bắt nó cầm tù, nên trốn xuống làm yêu làm quỷ. Bây giờ ta bắt đặng, phải nạp cho Phật Tổ xử phân. Nếu giết tư là vô lễ.
Hành Giả nghe nói liền tạ ơn.
Linh Kiết bay về Tây độ.
Nói về Bát Giới ở trong rừng lấp ló dòm hoài.
Xảy thấy Hành Giả về tới.
Bát Giới mừng rỡ hỏi rằng:
– Chẳng hay công việc ra thể nào?
Hành Giả thuật các chuyện, rồi nói rằng:
– Nay hai anh em mình đi tới động Huỳnh Phong, mà cứu sư phụ.
Bát Giới nghe nói mừng quá, đồng vào động Huỳnh Phong.
Những là thỏ đế, chồn hôi, nai chà, gấu ngựa, đều bị Ðinh ba đập chết cả bầy.
Ðồng ra sau vườn, mở dây cho Tam Tạng.
Bát Giới mừng rỡ dọn cơm nước đãi thầy, Hành Giả thuật các chuyện cho thầy nghe.
Tam Tạng cám ơn hết sức.
Thầy trò ăn uống xong xả, đồng ra động tức thì.
Ba thầy trò nhắm hướng Tây thẳng tới.