Thác Bạt Khuê thốt: “Đầu óc của ngươi xoay chuyển cũng rất mau, Nam phương từ sau khi Tạ Huyền nắm chức thống soái Bắc Phủ binh, đánh đâu thắng đó, cho nên có thể thấy được y trí dũng song toàn. Y sai ngươi vượt trăm ngàn gian khổ đưa một phong thư cho Chu Tự, trong đó đương nhiên có sự vụ khẩn yếu, hơn nữa không cho phép Chu Tự cự tuyệt. Nếu cứ nghĩ tới bề mặt của tình huống, ta cũng nghĩ Chu Tự khó có thể chịu nhận, nhưng Tạ Huyền là người phi thường, có thủ đoạn phi thường, cho nên ta vẫn nghĩ tất cần phải đem thư giao tận tay Chu Tự”.
Tiếp đó cười khan: “Xem ra ta đối với Tạ Huyền còn có lòng tin hơn là ngươi đối với y”.
Lưu Dụ bị hắn châm chọc thấy khó chịu, trong lòng tức uất, lại không thể phát tác, cười khổ: “Được thôi! Tất cả y theo lời ngươi!”.
Thác Bạt Khuê chợt thò tay nắm vai gã, thấp giọng: “Nói thẳng với ngươi: ta vốn không quá coi trọng Tạ Huyền, mãi cho đến khi từ miệng ngươi biết Tạ Huyền độc đoán buông bỏ Thọ Dương mặc cho số đông nghị luận, lập tức cải biến ấn tượng về y, đầy lòng tin đối với y. Nếu đổi lại không phải là Tạ Huyền mà là bất cứ tướng lãnh nào của Nam Tấn chủ sự, ngươi thấy tình huống sẽ ra sao chứ?”.
Lưu Dụ cảm thấy được ngón tay dài mạnh của hắn, ngầm rùng mình. Thác Bạt Khuê nhìn cực chuẩn, người Tấn lúc nghe tin đại quân Đê Tần nam hạ, trong quân quả thật có hai ý kiến. Một là cứng cỏi dựa vào Trường Giang cố thủ thành trì lấy Kiến Khang làm trung tâm, còn một kia là tử thủ Thọ Dương, không để đại quân Đê Tần vượt sông Hoài nam hạ. Chiến lược của Tạ Huyền lại nằm ngoài hai ý kiến đó, làm cho người ta khó lường cao thâm. Trong số các tướng lãnh người Tấn, Lưu Dụ là một trong vài người đủ tài trí để nhận xét về Tạ Huyền, biết cái Tạ Huyền dùng đích thị là sách lược khiến cho địch nhân “không biết lực lượng công kích ở đâu”, Thác Bạt Khuê là người ngoại tộc, chỉ bằng vào việc Tạ Huyền buông bỏ Thọ Dương là liền nhìn ra sự cao minh của Tạ Huyền, có thể thấy Thác Bạt Khuê quả là một kẻ tài trí hơn người.
Thác Bạt Khuê nói tiếp: “Người Tần rành mã chiến, kỵ binh lợi hại nhất là vận dụng xích hậu tiêm binh, đội binh mũi nhọn dò xét tình hình địch quân, nếu để bọn chúng có đồng trống rộng rãi để phát huy, Bắc Phủ binh làm sao là địch thủ cho được? Chỉ có để chúng hãm thân vào vùng sông hồ rừng núi giao nối, các ngươi mới có hy vọng thắng”.
Xích hậu là đội thám tử xem gió biết tình thế, mã thuật của người Hồ tinh thông, đến đi như gió, có thể quan sát địch nhân cách xa mà rõ như chỉ tay, hơn nữa điều động linh hoạt, lúc nào cũng có thể bằng vào kỳ binh đột tập địch thủ, một khi để cho bọn chúng tung hoành như chỗ không người ở vùng đồng trống bao la, người phương Nam chỉ còn nước cố thủ thành trì, hãm vây vào ách vận bị truy đuổi kích phá. Mà Thọ Dương ở vùng giao nối của hai con sông Hoài Thủy và Phì Thủy, quân Tần công hãm Thọ Dương sẽ từ không hình tích biến thành có hình tích, tính linh hoạt của kỵ binh vì vậy mà giảm yếu đi nhiều, cho nên lời nói của Thác Bạt Khuê là vậy.
Lưu Dụ không thể không nói: “Lời nói của Thác Bạt huynh thật cao thâm”. Đồng thời nghĩ đến khuyết điểm duy nhất của Thác Bạt Khuê có lẽ là sự kiêu ngạo tự phụ và thích người ta chịu phục của hắn.
Bên trên thình lình truyền tới tiếng mở cửa.
Hai người giật bắn mình, nghe bốn tên lính bên trên hoang mang đứng dậy, bọn họ trong lòng đang thảng thốt, đám binh sĩ đó làm sao còn có thể ngủ vùi được nữa. Có người bên trên thấp giọng nói: “Ta không nhìn thấy gì hết, khà khà!”. Tiếp đó có thanh âm mở cánh cửa thông ra hậu viện, người đó đi thẳng ra hậu viện, lớn tiếng: “Chuẩn bị ngựa!”.
Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê thất thần nhìn nhau, Yến Phi hiện thân cuối bậc cấp, bước lên nghe hai phiến cửa trước sau nặng nề mở ra, khe khẽ thốt: “Ta biết chỗ Chu Tự ở rồi!”.
Tạ An đứng ở đầu thuyền, Tống Bi Phong lơi tay đứng kề sau lưng ông ta, gió sông lùa qua, tà áo của hai người lất phất, phành phạch vang động.
Cũng là sông Tần Hoài, cũng là đi thăm Tần Hoài Lâu, tâm tình của âm ta so với đêm hôm qua còn chìm đắm nặng nề hơn nữa.
Gánh nặng quốc gia hưng vong đè nén đến mức tức thở. Biến cục có thể đến theo chiến thắng hoặc chiến bại càng khiến cho ông ta có cảm giác sâu đậm khó thể gánh đương nổi.
Ông ta rất muốn tìm Vương Thản Chi, nói rõ cho họ Vương biết chuyện làm ám muội của con trai y, lại biết làm như vậy là bất trí phi thường. Vương Thản Chi là đại thần chức trọng quyền cao, nhưng tính khí có chỗ đoản, luôn đem sự vinh diệu của gia tộc đặt trên. Cái độc hại nhất là y nghi kỵ Tạ Huyền, sợ Tạ Huyền trở thành một Hoàn Ôn khác. Tạ An để Tạ Thạch nắm ngôi chủ soái chính là có nỗi khổ bất đắc dĩ. Ông ta cự tuyệt không cho Vương Quốc Bảo tham chiến, khẳng định đã khuấy động sự hoài nghi và bực dọc của Vương Thản Chi, nếu còn kể cho y về lầm lỗi của con trai y chỉ có thể gia tăng thêm vết rạn vỡ giữa hai đại gia tộc, cho nên chuyện Di Lặc giáo tất cần phải cẩn thận xử lý.
Tạ An ngấm ngầm thở dài, bình tĩnh hỏi: “Giang Hải Lưu có phải đang ở Kiến Khang?”.
Tống Bi Phong giật mình, Giang Hải Lưu ở phương Nam là nhân vật giậm chân có thể làm chấn động cả vùng Giang Tả. Y bản thân võ công cao cường không thua một ai, nhưng cái làm cho người ta kính sợ đích thị là ý nắm giữ địa vị long đầu lão đại của Đại Giang Bang.
Giang Hải Lưu quật khởi nhằm thời đại Hoàn Ôn nắm quyền, sáng lập Đại Giang Bang, thủ hạ hơn vạn người, thiết lập phân đà khắp thành trấn hai bờ Trường Giang, chuyên làm nghề mua bán muối, làm ăn rất có lời, càng khiến cho thế lực của Đại Giang Bang bành trướng không ngừng. Do có Hoàn Ôn chống lưng, y đối với Hoàn gia cũng một lòng trung thành. Hơn nữa Giang Hải Lưu biết lo cho tròn đều với người người, cho nên Đại Giang Bang vững như Thái Sơn, cho dù là triều đình Nam Tấn cũng phải nể mặt y.
Năm Hoàn Ôn bị bệnh chết, Tư mã Diệu vẫn không dám tước binh quyền của Hoàn gia, một trong những nguyên nhân chủ chốt chính là có Giang Hải Lưu đứng về phía Hoàn gia. Đến khi Hoàn Xung trở thành đầu não của Hoàn gia, vì Hoàn Xung chi trì triều đình, Đại Giang Bang sống hòa bình vô sự cùng triều đình, hơn nữa nạp đủ lương thuế, trái lại còn trở thành chủ lực áp bức thế lực thổ hào địa phương phía Nam.
Tạ An luôn luôn giữ khoảng cách với Giang Hải Lưu, tránh tạo sự hoài nghi của triều đình và Hoàn gia, bây giờ đột nhiên hỏi về y, tỏ ra tình huống dị thường cực kỳ.
Tống Bi Phong đáp: “Giang long đầu luôn luôn hành tung quỷ bí, bất quá y nếu ở Kiến Khang, nhất định có thể hiệu triệu đến gặp An gia, An gia có phải muốn Bi Phong truyền lời cho người?”.
Tạ An gật đầu: “Nếu y có ở Kiến Khang, ta đêm nay muốn gặp y ở Tần Hoài Lâu”.
Ba người lui xuống thạch cấp nói chuyện.
Yến Phi giải thích: “Phù Kiên hiện tại tâm huyết lai láng, muốn triệu Chu Tự đến hỏi dò về tình huống Thọ Dương, Phù Dung sai người đến Tây Uyển bên Tây môn đại nhai triệu Chu Tự đến gặp, bọn ta có thể đợi đến khi Chu Tự gặp Phù Kiên xong, sau khi quay lại Tây Uyển, để cho Lưu huynh tiềm nhập giao mật hàm cho gã”. Tiếp đó nói rõ vị trí của Tây Uyển.
Hai người trong lòng khen hay, chỉ cần bọn họ đến Tây Uyển trước khi Chu Tự quay về, có thể dễ dàng tìm ra chỗ nghỉ ngơi của gã, bất thình lình không quen không biết xông ra gặp gã, đó đương nhiên còn trông vào sự hợp tác “thân tại Tào doanh tâm tại Hán” của Chu Tự, nếu không, Chu Tự tính kế hại bọn họ, ba người không còn chỗ thoát thân.
Thác Bạt Khuê nói: “Chỉ cần bọn ta có thể học theo tên tiểu tử hồi nãy từ cửa sau đi đến hậu viện, quát lớn một tiếng “chuẩn bị ngựa”, chắc có thể qua khỏi, vấn đề là làm sao đến đó được”.
Lưu Dụ nói: “Một phương pháp ổn thỏa khác là đợi Phù Kiên bỏ đi, bọn ta mới ly khai. Ài! Bất quá tịnh không hợp tình lý”.
Thác Bạt Khuê gật đầu: “Đúng! Ngươi nói chuyện không đâu”.
Phải biết cho dù Phù Kiên dẫn thân binh bỏ đi, ngoài Đệ Nhất Lâu vẫn trùng trùng trạm canh, đột nhiên lại lòi ra hai “thân binh”, cho dù biết quân lệnh, không bị người ta hoài nghi mới là lạ.
Yến Phi nói: “Các ngươi nghe kìa!”.
Hai người dõng tai lắng nghe, chỗ cửa ra thấp thoáng truyền đến tiếng ngáy. Thác Bạt Khuê mừng thốt: “Chắc là tiếng ngáy của hai người”.
Yến Phi quyết đoán: “Không mạo hiểm một chút không được, lợi dụng cơ hội bốn tên thủ vệ bên trên ngủ vùi hoặc nửa tỉnh nửa mê, bọn ta lén ra, chế ngự bọn chúng, tốt nhất là dùng thủ pháp điểm huyệt, bọn chúng thần trí mù mờ, làm cho bọn chúng ngủ say, cho dù bọn chúng tỉnh lại cũng chỉ nghĩ mình mệt quá mà ngủ thiếp đi”.
Lưu Dụ nhíu mày: “Vậy ngươi muốn làm sao?”.
Thác Bạt Khuê đang ngưng thần lắng nghe, cười nói: “Người thứ ba cũng ngủ luôn rồi! Có khi bọn ta không cần đụng tới tay chân”.
Yến Phi nói: “Các ngươi từ cửa sau cứ ngang nhiên đi ra, kiếm cách thu hút sự chú ý của đám vệ sĩ ngoài hậu viện, ta từ cửa sổ lén chui ra, lợi dụng cây cối yểm hộ mà ly khai, sẽ gặp lại các ngươi ở Tây Uyển”.
Lưu Dụ lo lắng: “Ngươi có nắm chắc không?”.
Yến Phi cười khổ: “Cho nên ta nói phải mạo hiểm, bất quá An đại tiểu thư đã có thể làm được, hiện tại thủ vệ tuy đã được tăng cường, nhưng bởi bọn chúng không nghĩ tới địch nhân có thể từ Đệ Nhất Lâu lén lút đi ra, thêm vào ai ai cũng mệt mỏi muốn chết, ta có tám chín phần tin chắc là có thể qua khỏi”.
Lưu Dụ chợt nhớ tới An Ngọc Tình mà ba người chừng như đã quên bẳng đi: “An yêu nữ quả thật có nghề, không biết ả trốn đi đâu?”.
Thác Bạt Khuê căm tức: “Tốt nhất là ả bị Khất Phục Quốc Nhân bắt được, lúc đó sẽ hối hận đã bán đứng bọn ta”.
Thật ra hắn lại biết mình không thật sự hy vọng An Ngọc Tình lọt vào tay địch nhân, có cảm giác mâu thuẫn thật cổ quái.
Yến Phi đi lên thạch cấp, lên đến bậc mười, tiếng ngáy của người thứ tư cuối cùng cũng đã vang lên, hợp tấu với tiếng ngáy của ba người kia.
Yến Phi nhẹ nhàng nâng cái chảo sắt lên, ló đầu ra nhìn, thấy bốn tên thân binh của Phù Kiên đang chia thành cặp dựa ngồi kề cửa trước cửa sau nhà bếp, nhắm mắt ngủ say, binh khí đặt dưới đất, tình huống khiến cho người ta bật cười lên.
Yến Phi biết thời cơ khó có, bởi bốn tên lính là tinh binh đã trải qua huấn luyện nghiêm khắc, cho dù ngủ vẫn có tính cảnh giác rất cao, hễ có tiếng động lạ là lúc nào cũng có thể sực tỉnh, liền rón rén nâng cái chảo phóng nhẹ ra.
Hai ngọn đuốc cắm ở cửa trước cửa sau đang phừng cháy, chiếu sáng nhà bếp đồ đạc bể nát.
Một tên binh Tần trong hai kẻ ngủ gần cánh cửa thông ra Đệ Nhất Lâu hơn giật mình, tiếp đó mí mắt láy động, ngừng ngáy, lập tức muốn mở mắt ra.
Yến Phi thầm kêu không hay, nhanh trí quăng cái chảo lên cao, phóng ngang qua, một chỉ điểm ngay my tâm của gã, tên đó trúng chỉ ngã xuống, hôn mê liền. Lưu Dụ đằng sau giơ tay tiếp lấy cái chảo rớt xuống, vừa phóng ra vừa ngầm la nguy hiểm quá, tiếp đó tới phiên Thác Bạt Khuê, ba tên binh Tần kia vẫn ngủ vùi.
Lưu Dụ cầm cái chảo không hơi không tiếng đặt lại trên cửa vào, tất cả hồi phục lại nguyên trạng, ba người đều có cảm giác thở phào, ít ra đã thành công qua được cửa thứ nhất.
Yến Phi ra hiệu cho hai người đi ra.
Hai người gật đầu biểu thị đã hiểu, Yến Phi sẽ ở lại giám thị ba tên kia, bảo đảm không cho ai tỉnh dậy thành loạn.
Thác Bạt Khuê hít một hơi sâu, chỉnh lý lại quân phục trên mình hoàn toàn không khác gì bốn tên lính trong nhà bếp, cẩn thận mở cửa sau, cùng Lưu Dụ ngang nhiên cất bước đi ra.
Yến Phi nhẹ nhàng đóng cánh cửa sau cho bọn họ.