Song Ma-hơ-đi vốn lúc nào cũng muốn cho niềm vinh quang về lòng từ tâm của y được truyền tụng không những chỉ trong số các tín đồ đạo Hồi mà lan ra toàn thế giới, nên y nghĩ rằng, một hình phạt quá hà khắc đối với một đứa trẻ có thể sẽ làm tổn hại đến thanh danh y.
Y lần tràng hạt một hồi lâu và suy nghĩ, rồi nói:
– Không! Những đứa trẻ này bị bắt để mang tới cho Xmai-nơ, nên mặc dù ta không bao giờ thương lượng gì với bọn vô đạo, cần phải gửi chúng tới chỗ Xmai-nơ. Đó là ý muốn của ta.
– Sẽ làm theo ý muốn của Người! – Viên thống lĩnh đáp.
Ma-hơ-đi trở tay chỉ I-đrix, Ghe-bơ-rơ và bọn Bê-đu-in.
– Hỡi Áp-đu-la-hi, ngươi hãy nhân danh ta thưởng cho những người này vì họ đã vượt qua một quãng đường dài và nguy hiểm để phụng sự ta và Thượng đế.
Rồi y gật đầu ra hiệu rằng buổi tiếp đã kết thúc, đồng thời ra lệnh cho ông lão Hy Lạp cũng ra về luôn. Khi đã ra đến chỗ tối trên bãi cầu nguyện, ông lão liền túm lấy tay Xtas lắc lấy lắc để vì tức giận và tuyệt vọng.
– Đồ khốn nạn! Mày đã giết chết đứa trẻ vô tội này rồi! – Ông vừa nói vừa chỉ Nen. – Mày đã giết cả mày và có thể cả tao nữa đấy!
– Cháu không thể làm khác được. – Xtas đáp.
– Mày không thể! Mày hãy nhớ rằng hai đứa chúng mày sẽ bị đày ải tiếp trên một chặng đường thứ hai còn trăm lần tồi tệ hơn chặng đường vừa rồi. Đó là chết – mày hiểu chưa? Ở Pha-sô-đa, chỉ trong vòng một tuần, bệnh sốt rét sẽ giết chúng mày. Ma-hơ-đi biết rõ điều đó, vì thế ông ta gửi chúng mày tới chỗ Xmai-nơ.
– Ở Om-đu-a-man thì rồi chúng cháu cũng chết.
– Không đúng! Chúng mày sẽ không chết trong nhà Ma-hơ-đi, trong no đủ và tiện nghi đâu! Ông ta đã sẵn sàng đón nhận chúng mày vào che chở dưới cánh. Tao biết là ông ta đã sẵn sàng. Thế là mày đã trả ơn tao hậu hĩnh vì chính tao đã bệnh vực chúng mày.
Thôi, chúng mày muốn làm thế nào thì làm. Một tuần nữa Áp-đu-la-hi sẽ gửi một chuyến bưu điện bằng lạc đà đến Pha-sô-đa, trong tuần tới chúng mày muốn làm gì tuỳ thích. Chúng mày sẽ không thấy mặt ta nữa đâu!…
Nói xong ông bỏ đi ngay, nhưng chỉ lát sau ông đã quay trở lại. Như mọi người Hy Lạp khác, ông vốn lắm lời, và phải nói cho thoả. Ông lão muốn trút hết cơn giận đang bừng bừng trong người lên đầu Xtas. Ông không phải là người tàn bạo và không có một tim hung dữ, tuy vậy ông muốn cậu bé phải thấm thía hơn nữa cái trách nhiệm kinh khủng mà cậu bé buộc vào cho mình khi không chịu nghe lời khuyên cùng những lời ngăn đe của ông.
– Ai cấm mày là người Thiên Chúa trong lòng, hả?
– Ông nói. – Mày nghĩ là tao không theo đạo chăng? Nhưng tao không phải là thằng ngốc. Còn mày, mày muốn phô phang cái anh hùng rơm củ a mày kia. Từ trước tới nay tao đã giúp được cho tù binh da trắng bao nhiêu việc, còn từ giờ tao không còn có thể giúp họ được nữa, vì Ma-hơ-đi đã giận tao rồi. Tất cả sẽ chết hết! Cả cô bạn tù nhỏ bé của mày cũng vậy thôi.Chính mày đã giết chết con bé. Ở Pha-sô-đa cả đến người lớn cũng chết vì sốt rét như ruồi nữa là trẻ con. Còn nếu như chúng nó bắt bọn mày phải đi bộ theo sau ngựa và lạc đà, thì con bé sẽ gục ngay trong ngày đầu tiên.
Chính mày gây ra chuyện đó. Mày hãy vui sướng đi, cái đồ… Thiên Chúa giáo này!
Rồi ông bỏ đi, còn họ thì rẽ khỏi bãi cầu nguyện, qua những phố tối tăm, trở về lều. Họ đi rất lâu, vì thành phố trải dài trên một phạm vi khổng lồ. Mệt mỏi vì cố sức, vì đói, vì sợ và vì những ấn tượng kinh khủng suốt cả một ngày trời, chốc chốc Nen lại phải dừng chân. I-đrix và Ghe-bơ-rơ thúc cô bé đi nhanh hơn. Song chỉ một lát sau, chân cô bé hoàn toàn mềm nhũn. Xtas bèn bồng cô bé lên tay không chút ngần ngừ và mang đi. Dọc đường, em muốn nói với Nen, muốn thanh minh trước cô bé rằng em không thể hành động khác đi, nhưng những ý nghĩ cứ chết cứng lại trong đầu óc em, khiến em chỉ lặp đi lặp lại: “Nen! Nen! Nen!”, và siết chặt cô bé vào mình, không thể nói được gì hơn nữa. Sau vài chục bước chân, Nen đã ngủ thiếp đi vì kiệt sức trên tay em, thế là em im lặng bước đi trong sự tĩnh mịch của những phố hẻm đang ngủ yên, sự tĩnh mịch chỉ bị gián đoạn bởi câu chuyện giữa I-đrix và Ghe-bơ-rơ.
Trong tim bọn chúng tràn ngập niềm sung sướng, đó là điều may mắn cho cả Xtas, vì nếu không bọn chúng có thể sẽ trị em về tội dám đối đáp ngỗ ngược với Ma-hơ-đi. Song chúng đang bận tâm về những điều vừa được hưởng nên không thể nghĩ chuyện gì khác.
– Trước, anh cảm thấy ốm đến nơi rồi, – I-đrix nói,-nhưng được nhìn thấy Đức tiên tri anh đã khỏi bệnh hoàn toàn.
– Người giống như cây cọ trên sa mạc, như dòng nước mát lành giữa ngày nóng nực, lời của Người giống như những quả chà là chín mọng vậy. -Ghe-bơ-rơ đáp.
– Gã Nu-rơ En Ta-thin nói dối khi bảo rằng Người không cho chúng mình vào gặp. Người đã cho vào,đã ban phước lại còn ra lệnh cho ngài Áp-đu-la-hi phải ban thưởng cho chúng ta nữa chứ.
– Ngài thống lĩnh sẽ thưởng cho chúng ta rất hậu, vì ý muốn của Ma-hơ-đi là thiêng liêng.
– Tuyệt quá! Mong sao được đúng như lời ông nói, – một trong hai tên Bê-đu-in lên tiếng.
Và Ghe-bơ-rơ bắt đầu mơ tưởng đến hàng đàn lạc đà, súc vật có sừng, hàng đàn ngựa và hàng túi hàng túi ních đầy những đồng piaxt.
Gã I-đrix chợt khiến hắn tỉnh cơn mơ màng ấy khi cất tiếng hỏi và chỉ Xtas đang bế Nen đang ngủ say:
– Ta làm gì với con ruồi trâu và ruồi nhóc này hả?
– Ha! Ngài Xmai-nơ sẽ phải thưởng riêng cho chúng ta về chúng nó đấy!
– Khi mà đấng tiên tri đã nói rằng người không cho phép bất cứ một cuộc thương thuyết đổi chác nào với bọn vô đạo, thì Xmai-nơ chẳng dính dáng gì với chúng nó nữa đâu.
– Thế thì tôi thật tiếc là chúng nó không rơi vào tay ngài thống lĩnh, hẳn ngài ấy sẽ dạy cho thằng chó con kia biết thế nào là cất tiếng sủa chống lại chân lí và con người mà Thượng đế đã lựa chọn.
– Ma-hơ-đi rất nhân từ. – I-đrix đáp.Hắn cân nhắc một lúc lâu rồi nói:
– Dù sao, khi có hai đứa trong tay, thì ngài Xmai-nơ sẽ có thể chắc chắn rằng cả bọn Thổ lẫn bọn Anh đều không thể giết con ngài và bà Phát-ma.
– Thế nghĩa là có thể ông ta sẽ thưởng công cho chúng ta?
– Phải. Cứ để cho chuyến bưu điện của ngài Áp-đu-la-hi mang chúng nó đến Pha-sô-đa. Chúng ta càng thêm nhẹ gánh. Khi nào ngài Xmai-nơ quay trở lại đây, ta sẽ nhắc ngài về chuyện tiền nong sau.
– Anh nói thế có nghĩa là chúng ta sẽ ở lại Om-đu-a-man?
– Lạy đức A-la! Mày chưa ngán quãng đường từ Phai-um tới Khác-tum hay sao? Đến lúc chúng ta phải nghỉ ngơi rồi.
Đám lều trại không còn xa nữa. Tuy nhiên, Xtas cũng đã phải chậm bước chân, vì sức em cũng đã bắt đầu kiệt. Mặc dù Nen vốn nhẹ, nhưng mỗi lúc một thêm nặng trên tay em. Bọn Xu-đan, muốn nhanh được ngủ, bèn quát mắng em và bắt đầu đấm vào đầu em. Thậm chí gã Ghe-bơ-rơ còn dùng dao thích vào bả vai em đau điếng. Cậu bé chịu đựng tất cả những cái đó trong im lặng, chỉ cố tìm cách che cho cô em bé bỏng của mình, mãi cho tới khi một trong hai tên Bê-đu-in đẩy em mạnh đến suýt ngã em mới thốt lên với bọn chúng qua hai hàm răng nghiến chặt:
– Chúng tôi còn phải sống đến được Pha-sô-đa nữa đấy.
Những lời ấy khiến bọn Ả Rập dừng tay, vì chúng e sẽ phạm lệnh Ma-hơ-đi. Song điều khiến chúng phải ngừng những hành động ấy lại là vì I-đrix bỗng nhiên bị chóng mặt dữ dội, đến nỗi hắn phải tựa vào vai Ghe-bơ-rơ. Lát sau, cơn chóng mặt qua đi, nhưng tên Xu-đan hoảng hốt và nói:
– Lạy đức A-la! Có chuyện không hay xảy ra với tôi rồi. Có thể tôi bị nhiễm bệnh rồi chăng?
– Anh đã được gặp Ma-hơ-đi, anh không thể nào ốm được. – Ghe-bơ-rơ đáp.
Cuối cùng bọn chúng cũng về tới khu lều. Với chút sức cuối cùng, Xtas đưa Nen đang say ngủ vào tay bà Đi-na. Mặc dù cũng không được khoẻ lắm song bà cũng đã sửa soạn cho cô chủ của mình một chỗ nằm êm ái. Bọn Xu-đan và Bê-đu-in nuốt vội mỗi tên vài rẻo thịt tươi rồi lăn ngay ra chỗ nằm như những súc gỗ. Chúng không cho Xtas chút gì để ăn cả, chỉ có bà Đi-na dúi vào tay em một vốc ngô ngâm mà bà đã lấy bớt của lũ lạc đà. Song cậu bé chẳng còn lòng nào nghĩ đến chuyện ăn và ngủ cả.
Bởi lẽ, gánh nặng đang đè trên vai em thật quá nặng nề. Em cảm thấy rằng, khi từ chối thẳng thừng ân huệ của Ma-hơ-đi, cái ân huệ phả i đánh đổi bằng việc từ bỏ tín ngưỡng và linh hồn, em đã hành động đúng đắn; em cảm thấy rằng giá cha em biết, ông sẽ có thể tự hào và sung sướng vì hành động của em, song đồng thời em nghĩ rằng chính em đã kết liễu đời Nen, người bạn trong cảnh nô lệ, người em gái nhỏ thân thương, người mà em sẵn sàng hiến dâng cho đến giọt máu cuối cùng.
Vậy nên, khi tất cả mọi người đã ngủ say, em oà lên khóc nức nở, và nằm lăn trên một tấm nệm, em khóc rất lâu như một đứa trẻ, mà quả thật em cũng hãy còn là một đứa trẻ kia mà.
— —— —— —.
1 Khốc-him hiện nay là một thành phố ở U-crai-na, trước đây thuộc Ba Lan. Tại đó, năm 1621 quân Cô-dắc và Ba Lan, dưới sự chỉ huy của J. K. Khốt-ki-ê-vích đã mấy lần thắng quân Thổ đông hơn gấp bội, cũng tại đó, năm 1673, vua Ba Lan J.Xê-bi-e-xki cũng đã đánh tan quân Thổ. Năm 1683, quân đội liên minh của Ba Lan và các nước đồng minh đã giải vây cho thành Viên, đánh tan quân Thổ (N.D).