Sau khi đưa được Doãn chưởng quỹ đi, Tống chưởng quỹ mới thở phào một hơi. Không ngờ mấy ngày sau, bản thân hắn cũng thượng thổ hạ tả một ngày mấy chục lần. Tống chưởng quỹ rất sợ hãi, sợ rằng cũng mắc chứng bất trị giống như Doãn chưởng quỹ, vội vàng gọi tiểu nhị đi nói với nữ nhi Tuyết Phi Nhi, mời Đỗ Văn Hạo tới chữa bệnh.
Tuyết Phi Nhi nghe nói phụ thân bị bệnh thì rất lo lắng, nói cho Đỗ Văn Hạo biết, Đỗ Văn Hạo đương nhiên tự mình cầm hòm thuốc đến khách ****. Sau khi chuẩn sát thì kê đơn, hai ngày sau là khỏi.
Tống chưởng quỹ rất cao hứng, cầm lễ vật tới đăng môn bái tạ: “Đỗ đại phu, may mà gặp đươc ngài. Nếu không lại giống như cái tên bướng bỉnh lúc trước trong khách **** của ta, mời mấy tên lang băm đến, e rằng cũng phải vào chùa nằm chờ chết như hắn rồi.”
Đỗ Văn Hạo lấy làm lạ, hỏi: “Bệnh nhân trong khách **** của ngươi cũng mắc bệnh này à?”
“Đúng vậy!” Tống chưởng quỹ kể lại chuyện đã xảy ra cho Đỗ Văn Hạo nghe, sau đó nói: “Ta đã bảo hắn đi mời ngài tới khám bệnh, nhưng biểu huynh của hắn không chịu, còn nói chỉ là bệnh vặt vãnh, kết quả khi bệnh nặng rồi muốn tìm ngài thì ngài lại không có nhà, mời Diêm Diệu Thủ tới khám, nói là bệnh đã bất trị, lúc này đang ở trong chùa Tướng Quốc!”
Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn về phía Diêm Diệu Thủ, nói: “Ngươi đã từng khám cho bệnh nhân này hả?”
“Vâng, chính xác là bất trị rồi!” Diêm Diệu Thủ kể lại qua trình chẩn sát cho Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo hỏi Tống chưởng quỹ và Diêm Diệu Thủ tường tận quá trình phát bệnh của chứng tượng của Doãn chưởng quỹ, trầm ngâm một lát rồi nói: “Ta đi coi sao!”
Đỗ Văn Hạo đưa Diêm Diệu Thủ và Tuyết Phi Nhi theo, dưới sự dẫn đường của Tống chưởng quỹ tới thiện phòng của Doãn chưởng quỹ tại chùa đại Tướng Quốc.
Đại hồ tử nghe Tống chưởng quỹ giới thiệu người tới chính là Đỗ đại phu của Ngũ Vị đường, tuy biểu đệ đã không còn hi vọng, nhưng vẫn rất tha thiết mời hắn vào phòng.
Trong phòng toàn là mùi hôi thối khiến cho người ta chực nôn ọe, đưa mắt nhìn, chỉ thấy Doãn chưởng quỹ đang nằm trên giường mềm, đã bị nước bẩn thấm khắp người, góc tường xếp một đống chăn và y phục bẩn được thay ra. Nhưng giờ thì đã không thay nữa vì đoán định bệnh không chữa khỏi, chỉ đợi sau khi tắt thở thì thay lần cuối cùng.
Đỗ Văn Hạo học pháp y, mùi có hôi thối thế nào cũng đã ngửi qua, tất nhiên không sợ, cầm một cái ghế tới ngồi cạnh giường,
Chỉ thấy Doãn chưởng quỹ bụng căng như cái trống, nhãn thần mê mang. Gọi hai tiếng cũng không trả lời, cầm lấy cổ tay hắn để chẩn mạch, một lát sau, trầm giọng nói: “Mạch tượng của hắn tuy yếu ớt, trầm tế, nhưng vẫn đập đều, quan mạch ở tay phải to như ngón tay, là do đầy bụng gây ra kiết lỵ. Những đại phu trước loại trừ hỏa trong người hắn là đúng, nhưng lại không loại trừ đi thức ăn trong bụng hắn, khiến cho bụng căng như trống, lúc này bệnh tuy nguy kịch, nhưng vẫn chữa được.”
Đại hồ tử nghe xong không nén được vui mừng, hỏi: “Đỗ đại phu, biểu đệ của ta thực sự có thể chữa được ư?”
“Chắc là có thể! Sau khi dùng Bình vị tán, thêm Thần khúc và mạch nha, tới buổi tối sẽ xả ra một lượng lớn uế vật…”
Tuyết Phi Nhi đứng ở bên cạnh dùng ngón tay bịt mũi, ồm ồm nói: “Ca ca, hắn đã đại tiện đến nỗi gầy rộc thế này rồi, huynh còn muốn hắn xả tiếp, chẳng phải là đã rét vì tuyết lại giá vì sương sao?”
“Hai loại tiêu chảy khác hẳn nhau, ngươi bệnh hiện tại tì thổ không vận hành, thấp trọc (ẩm ướt và nhơ bẩn) khốn ở bên trong, bụng trương như trống, đại tiện ồ ạt, hành khí làm khô tì, đem tất cả vật ô uế trong cơ thể hắn xả ra. Bệnh của hắn trước tiên phải rửa sạch tràng vị, tiếp theo ngăn kiết lị, sau đó thì bổ hư. Rửa sạch tràng vị là cơ sở, là mấu chốt để chữa bệnh.”
Diêm Diệu Thủ và Tuyết Phi Nhi nghe xong đều gật đầu. Nhưng, trong lòng hai người vẫn không tin rằng phương pháp dĩ độc công độc này có thể cứu được tính mạng của người sắp chết này.
Đỗ Văn Hạo dặn dò Đại hồ tử và Tiểu sấu tử: “Phải nhớ, buổi chiều sau khi hắn xả ô vật ra, không được cho hắn ăn cái gì, đợi ngày mai ta tới chẩn sát rồi tính tiếp.”
Hai người đáp ứng, cảm ơn Đỗ Văn Hạo, nhưng cũng không quá tin Đỗ Văn Hạo có thể cứu được người đã sắp chết.
Bọn Đỗ Văn Hạo trở về trong đường, kê thuốc, sắc tại Ngũ Vị đường rồi đưa tới chùa đại Tướng Quốc cho Doãn chưởng quỹ phục dụng.
Tới buổi chiều, Doãn chưởng quỹ quả nhiên xả ra một đống vật ô uế hôi thối không tả nổi, bụng đang trương phềnh như cái trống cũng xẹp dần xuống xuống, người cũng dần dần trở nên tỉnh táo hơn.
Đại hổ tử và tiểu sẩu tử rất vui mừng, ngay đêm vội vàng rửa sạch những vật ô uế trên giường, lại gõ cửa phòng của hòa thượng trong chùa mượn một cái chăn mới. Đổi toàn bộ chăn nệm dơ bẩn cho Doãn chưởng quỹ xong, liền đem tất cả quần áo bẩn đi giặt, lại lấy nước giếng sạch để cọ rửa sàn nhà, dọn dẹp căn phòng thật gọn gàn sạch sẽ.
Doãn chưởng quỹ mê man kêu đói, hai người vốn muốn đun cháo cho hắn ăn, nhưng nhớ tới lời dặn của Đỗ Văn Hạo, thủy chung không dám cho hắn ăn bất cứ thứ gì, thậm chí không dám cho hắn uống một ngụm nước, chỉ dùng lời nói để an ủi hắn.
Sáng sớm ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo dẫn Tuyết Phi Nhi, Diêm Diệu Thủ tới thiện phòng.
Tuyết Phi Nhi và Diêm Diệu Thủ thấy bệnh nhân đã tỉnh táo, đang ngồi dựa vào đầu giường nhìn họ, thấp giọng cảm tạ ơn cứu mạng, bất giác vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng, Tuyết Phi Nhi thấp giọng nói với Đỗ Văn Hạo: “Biện pháp dĩ lạp trị lạp (lấy đại tiện trị đại tiện) của ca ca thật là hữu hiệu!”
Diêu Diệm Thủ thì mặt tỏ ra xấu hổ: “Sư tổ, y thuật của con quá kém, suýt chút nữa thì hại chết người.”
Đỗ Văn Hạo nói: “Cái này không trách ngươi được, Trang đại phu của Huệ Nhân đường cũng không thể tìm được biện pháp để chữa trị, sau này biện chứng phải chú ý là được.”
Diêm Diệu Thủ cúi người đáp ứng.
Đại hồ tử và Tiểu sấu tử cực kỳ cao hứng, chắp tay nói với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ thần y, đa tạ ngài đã cứu tính mạng của biểu đệ ta, ta họ Ngưu, tên là Cảnh Ba, buôn bán đồ da ở kinh thành. Từ lâu đã ngưỡng mộ y thuật của tiên sinh, có lòng muốn kết nghĩa kim lang với tiên sinh, không biết tiên sinh có thể nể mặt không?”
Đỗ Văn Hạo cười nói: “Tứ hải giai huynh đệ, hà tất phải kết nghĩa kim lang.”
Tuyết Phi Nhi chen vào nói: “Đúng vậy, ca ca của ta chữa bệnh cứu sống vô số người, người được chữa khỏi đều muốn kết nghĩa thì hắn bận chết mất.”
Ngưu Cảnh Ba ha ha cười ngây ngô, Đỗ Văn Hạo đã uyển chuyển từ chối, hắn cũng không tiện nhắc tới nữa.
Đỗ Văn Hạo ngồi xuống phục chẩn, thấy Doãn chưởng quỹ mạch tiểu mà khí hư, kê đơn dùng Chân nhân dưỡng tạng thang để ngăn kiết lỵ.
Sau khi kê đơn, lấy thuốc xong, uống được ba thang, bệnh kiết lị của Doãn chưởng quỹ đã hết hẳn, có thể ăn uống. Đỗ Văn Hạo lại đổi sang dùng Nhân tham dưỡng vinh thang để bồi bổ cơ thể. Sau nửa tháng, Doãn chưởng quỹ có thể xuống giường và hoàn toàn bình phục.
Doãn chưởng quỹ thập phần cảm kích biểu ca đại hồ tử Ngưu Cảnh Ba và hảo hữu Tiểu sấu tử, trong lúc mình bệnh nặng hai người này luôn hết lòng chiếu cố, ba người từ đó trở thành mạch nghịch chi giao.
Sau khi khỏi bệnh, Ngưu Cảnh Ba và Tiểu sấu tử cùng Doãn chưởng quỹ mang lễ vật tới Ngũ Vị đường, bái tạ ơn cứu mạng của Đỗ Văn Hạo.
Ngưu Cảnh Ba phi thường bội phục y thuật của Đỗ Văn Hạo, khăng khăng muốn bái Đỗ Văn Hạo làm huynh, Đỗ Văn Hạo cũng rất thích tính tình trượng nghĩa của hắn, tuy không dập đầu kết nghĩa kim lang, nhưng cũng nhận tên đại hồ tử này là huynh đệ.
[/SPOILER]