Đêm hôm đó, mây đen che phủ Minh Nguyệt, một đội người Cát La Lộc gần ngàn người đang náo nhiệt trong bộ lạc, nào dê cừu vào chuồng, bò ngựa ung dung ăn cỏ trong chuồng, trong từng chiếc trại lều đèn lửa sáng trưng, cả nam nữ già trẻ đều vây quanh bếp lửa cùng nấu trà sữa, nướng thịt dê, chốc chốc lại có trẻ con chạy qua lại giữa các lều với nhau, tiếng cười tiếng nói vang vảng khắp thảo nguyên.
Bỗng nhiên, trên mặt đất bỗng vang lên tiếng sấm gầm, chiếc nồi đựng trà trên bếp rung động, người Cát La Lộc nhìn nhau không hiểu việc gì đã xảy ra. Không ít người đã chạy vội ra khỏi lều nhìn đông ngó tây, tiếng sấm được vang đến từ hướng đông, nhưng phía đông ấy vẫn đen thăm thẳm, không nhìn rõ tình hình, đi kèm với tiếng sấm ngày càng rõ, người Cát La Lộc bỗng hiểu ra, đây là tiếng vó ngựa của hàng ngàn chiến mã.
Cách đó ba dặm một đội quân đang thần tốc ùn đến, đấy là ba ngàn kỵ binh Sa Đà hung mành, người Cát La Lộc vội hô hào con cái liều mình bỏ chạy về hướng tây. Không đợi chúng chạy quá một dặm, quân Sa Đà đã xông vào doanh, ánh đao lấp lánh, tiếng thét thảm thiết vang lên khắp nơi, cuối cùng, là ngọn đuốc bị vứt vào trong lều trại, bỗng chốc thế lửa hừng hực xông thiên, cả trăm túp lều đã bị san bằng trong chốc lát. Kỵ binh Sa Đà đại khai sát giới, nam nữ già trẻ đều không tha, đều một đao kết liểu, đầu người lăn lốc, máu chảy nhuộm đỏ cả thảo nguyên, ngoài mười mấy người may mắn lên ngựa thoát ra ngoài, cả ngàn người còn lại đều chết thảm dưới tay người Sa Đà.
Chương 172: Lưỡng Hồ Song Tranh(2) oOo
Bảy ngày sau, tin người Sa Đà tập kích Đại Mạc Châu của Cát La Lộc bộ về đêm đã truyền khắp Bắc Đình, cũng truyền đến Nha trướng Cát La Lộc cạnh hồ Huyền Trì, đại Do trưởng người Cát La Lộc Mưu Thích Hắc Sơn nổi giận đùng đùng.
Mưu Thích Hắc Sơn năm nay đã năm mươi hơn, thân hình trung bình, nhưng phần vai có hơi dị dạng, râu ria đầy mặt, cộng thêm một chiếc mũi chung rượu to tướng, từ hai mươi năm trước hắn đã là Do trưởng của người Cát La Lộc, từ trước đến nay, hắn đều xem Hồi Khất là uy hiếp lớn nhất của Cát La Lộc, nhất là ba năm trước, sau khi núi Ô Đức Kiện của người Cát La Lộc bị người Khất Hồi chiếm. Mưu Thích Hắc Sơn càng lo lắng không nguôi, hắn biết sớm muộn người Khất Hồi cũng sẽ đánh qua đây. Vì thế, hắn vẫn đang tìm kiếm nơi ẩn mình mới, ánh mắt hắn nhìn về hướng Túy Diệp Xuyên, thời người Đột Kỵ Thi cường thịnh, hắn cơ hồ không bao giờ dám nghĩ đến điều này, nhưng khi người Đột Kỵ Thi hiện nay suy thoái, Túy Diệp nên đổi chủ mới, hắn tin chắc rằng, chỉ cần Cát La Lộc có được Túy Diệp, thủy thổ vùng đấy nhất định có thể đưa Cát La Lộc đến thời hưng thịnh.
Vì thế, những năm gần đây Mưu Thích Hắc Sơn ngày nghỉ đêm tính, đặt toàn bộ tâm sức cho việc đề phòng người Khất Hồi, mưu tính Đột Kỵ Thi, và chưa từng để tâm trí vào người Sa Đà, thủ lĩnh của chúng đã bị hắn giết, đến nay không dám vượt qua biên giới một bước, nhưng tộc người Sa Đà mà hắn chưa bao giờ để vào mắt này, giờ đây lại tập kích hắn về đêm, đồ sát cả một bộ lạc của hắn.
Một nỗi phẫn nộ như bị chó hoang cắn ngập tràn lòng hắn. Lúc này, ngoài liều truyền đến một giọng nói ồ ề. “Phụ thân, hãy cho con ba ngàn kỵ binh, để con đi san bằng người Sa Đà.”
Một bóng đen bước nước đại đi vào, đây là một chàng trai chạc ba mươi tuổi, thoạt nhìn trong hắn và Mưu Thích Hắc Sơn như đúc, mặt to, râu ria rậm rạp, mũi to, vai rộng, chỉ là thân hình của hắn có phần còn to lớn hơn Hắc Sơn, hắn chính là trưởng tử Mưu Thích La Đa của Hắc Sơn.
Mưu Thích La Đa háo sắc, tinh lực rất vượng thịnh, hắn có hai mươi người phụ nữ, hàng đều đều phải truyền năm người vào hầu hạ hắn, cái thứ hai là hắn rất hám tiền, đặc biệt là hoàng kim, mười mấy năm nay người Cát La Lộc cướp hoàng kim từ trong tay Tây Đột Khuyết, phần lớn đều rơi vào tay hắn, để có thể nhiều hoàng kim hơn, hắn đã cưới con gái của một thương nhân Luật Đặc Đại làm vợ, bố vợ giúp hắn mang đủ các loại đá quý cẩm thạch đi qua Tajik bán, đều đổi thành những thời vàng óng ánh hoàng kim.
Mưu Thích La Đai còn có một ước mơ lớn, đó là cưới một công chúa Đại Đường, tiếc là phụ thân hắn không tán thành, khiến ước mơ chỉ là ước mơ.
Mưu Thích Hắc Sơn đương lúc nóng giận, thấy con trai vào liền giận dữ nói: “Được, ta cho ngươi năm ngàn dũng sĩ Cát La Lộc, ngươi đi huyết tẩy người Sa Đà cho ta.”
“Phụ thân, tuyệt không thể nóng vội!” Một giọng nói khác xuất hiện nơi cửa lều, Mưu Thích La Đa nghe được giọng nói này, sắc mặt lập tức trầm lại, khinh miệt hừ giọng.
Chỉ thấy người đi vào là một nam tử khoảng hai bảy, hai tám tuổi. Khác với tướng mạo lợn rừng của La Đa, người trẻ tuổi này thân hình cao to, trên mặt là cặp mắt tài, chiếc mũi cao, trán rộng cạo, có thể nhìn thấy rõ huyết thống Hán tộc trên người hắn.
Đây chính là thứ tử Mưu Thích Tư Hàn của Hắc Sơn, Mẫu thân của hắn là một người Hán, nguyên là con gái một quân hộ Y Châu, năm Khai Nguyên thứ chín bị người Cát La Lộc bắt cóc làm nô lệ, Mưu Thích Hắc Sơn thấy nàng cũng có vài phần nhan sắc liền lập làm thiếp, sau sinh ra Mưu Thích Tư Hàn. Vì nhớ quê nhà, nàng đã đặt tên Hán cho con trai là Nhan Tư Hàn, năm hắn mười một tuổi, nàng lại sinh thêm một người con gái, không lâu sau, nàng vì do bị nhiễm trùng sau khi sinh mà qua đời.
Nhan Tư Hà và em gái thân phận thấp hèn, từ nhỏ đã chịu sự khinh miệt từ xung quanh, mãi đến năm mười tám tuổi, nhờ đầu óc linh hoạt hơn ngươi, bắt được con hùm đen gần ba trăm cân, chấn động cả Cát La Lộc, cũng khiến Mưu Thích Hắc Sơn phải nhìn hắn bằng con mắt khác, hắn lần lượt xuất mưu lược đưa Cát La Lộc mấy lần thoát khỏi họa lớn, nhất là việc năm ngoái người Hồi Khất định nuốt chửng bộ tộc Cát La Lộc Ô Đức Kiện sơn, Cát La Lộc Kim Sơn thoát khỏi nạn kiếp.
Nhưng dù Nhan Tư Hàn có biểu hiện xuất sắc nhường nào, cũng không thể thay đổi thân phận thấp hèn của mình, nhất là đại ca Mưu Thích La Đa càng khinh miệt người em trai này.
Nhan Tư Hàn ngăn cản khiến Hắc Sơn có thời gian bình tĩnh lại, hắn vội hỏi: “Vì sao không thể giết bọn chó Sa Đà, không lẽ chúng ta còn phải nhịn cả bọn chúng ư?”
“Phụ thân muốn báo thù không thành vấn đề, nhưng trước khi báo thù, nên thông báo cho Bắc Đình, con nghe nói Bắc Đình vừa đổi Tiết độ sứ, giả sử trong lúc hắn vào nhậm chức thì chúng ta đã đi tấn công người Sa Đà, chỉ như chúng ta bất kính với hắn, phụ thân nên tiên lễ hậu binh, tố cáo với Bắc Đình đã. Sau đó động binh cũng không muộn, như thế người bên Bắc Đình cũng không thể nói gì được.”
“Hừ! Tin tức người Hán các ngươi quả thật nhanh” Mưu Thích La Đa đứng một bệnh lạnh lùng chen ngang.
Nhan Tư Hàn vội đi lên thi lễ, cười hề hà đáp: “Đại ca, cũng chỉ là nghe mấy tên lái buôn nói, đệ làm sao có thể sánh vai cùng đại ca kiến thức sâu đậm.”
Thái độ ty hèn của Nhan Tư Hàn khiến tâm trạng Mưu Thích La Đa có phần tốt hơn, hắn liền mếu miệng nói: “Ngươi chỉ có được mấy ý nghĩ bất chính này, nếu theo ngươi báo cáo với Bắc Đình rồi động thủ, vậy chúng ta chắc bị người trong tộc mắng chết mất.”
Hắn quay mình nói với phụ thân: “Phụ thân, hay thế này, một bên bẩm báo, một bên động thủ, tiến hành song song.”
Mưu Thích Hắc Sơn gật đầu, đương lúc lão vừa định đồng ý thì bên ngoài lều có người to tiếng bẩm báo: “Do trưởng, đặc sứ Bắc Đình đến!”
Hắc Sơn ngỡ ngàng vội nói: “Nhanh, nhanh mời vào!”
Một lúc sau, một văn quan Bắc Đình trẻ tuổi nhanh chân bước vào, hắn chấp tay thi xong rồi dùng tiếng Đột Khuyết oang oang nói: “Ta chính là thư ký Bùi Du dưới chướng Lý Sứ quân Bắc Đình, đến là để truyền mệnh lệnh của Lý tướng quân.”
Hắc Sơn vội cười hòa: “Lý Sứ quân có phải chính là Tiết độ Lý phó sứ tân nhiệm chứ?”
“Đúng thế!”
Hắc Sơn lập tức ra hiệu mắt với hai đứa con, phụ tử ba người cùng thi lễ nói: “Xin nghe chỉ thị của Lý Sứ quân!”
Bùi Du rút ra một công điệp, thanh giọng đọc: “Xuân về Bắc Đình, chính là mùa săn bắt, bổn tướng quân đặc biệt cho triệu Hàn tướng ba quân và dũng sĩ các tộc dưới sự quản trị của Bắc Đình như Cao Xương, Cát La Lộc, Sa Đà, Đột Khuyết. Khương Hồ, Đột Kỵ Thi tụ hội Đình Châu tổ chức săn bắn, hạn là ngày mồng một tháng tư tất cả các quân tụ tập huyện Kim Mãn, kẻ trái lệnh đến muộn sẽ xử theo quân pháp.”
Bùi Du đọc xong vãn điệp liền cười nói: “Tướng quân nhà ta nói, các tộc tốt nhất là phái vương tử đến, giới hạn là năm mươi người, trong đó người Cát La Lộc và Sa Đà có thể dẫn đến một trăm người.”
Hắc Sơn trầm tư một lát, bỗng hỏi: “Xin hỏi Bùi tiên sinh, Lý Sứ quân nguyên nhậm chức nơi nào?”
Bùi Du cười cười: “Sứ quân nhà ta nguyên là An Tây tướng, bị ví là Tây An đệ nhất tiễn, đại Do trưởng đã từng nghe nói đến?”
“Hóa ra là Thiên Sơn huyết tiễn!”
Hắc Sơn có phần sững sờ trợn tròn mắt, tân nhiệm Tiết độ sứ này hóa ra là Lý Khánh An An Tây mà người Đột Kỵ Thi phải danh mà xanh mặt.
Bùi Du chấp tay: “Ta đã truyền lệnh xong, đại Do trưởng xin cứ chuẩn bị, đừng để lỡ ngày.”
Nói xong, hắn cáo từ đi về, Bùi Du vừa về, Nhan Tư Hàn liền nói: “Phụ thân, Lý Khánh An này mượn cớ đi săn, hắn muốn mượn dịp này điều tiết lại mâu thuẫn người Cát La Lộc cùng Sa Đà.”
“Ta cũng nghe ra.”
Hắc Sơn từ từ gật đầu: “Nếu hắn đã có ý điều tiết ở giữa, vậy chúng ta cũng không hay đi đánh Sa Đà liền, thế này!” Lão quay sang nói với hai con trai: “Hai ngươi dẫn theo một trăm dùng sĩ Cát La Lộc đến huyện Kim Mãn tham gia đợt săn mùa xuân, xem hắn định điều tiết mâu thuẫn hai bên như thế nào.”
Người Cát La Lộc và Sa Đà xảy ra xung đột, khiến Lý Khánh An kết thúc thị sát tại Y Châu sớm hơn dự kiến, vội vàng quay về Đình Châu, chuẩn bị điều tiết xung đột giữa hai Hồ. Vừa hay có thể mượn tập tục Bắc Đình, tháng ba, tư mỗi năm, các quân các tộc đều phải phái cao thủ kỵ xạ đến Bắc Đình, đây kỳ thực cũng là một loại hội hợp, đối với Lý Khánh An vừa đến nhậm chức, lại càng quan trọng, là một cơ hội để xác định vị trí chủ đạo trên đất Bắc Đình của hắn.
Hắn đến Bắc Đình đã gần một tháng, tuy có vài lần chào hỏi không lạnh không nhạt cùng Trình Thiên Lý, nhưng Tây Châu Đô đốc Triệu Diên ngọc vẫn không có tin tức bất kỳ. Không đến hỏi han, cũng không đến gặp mặt cùng hắn, như thể là chỉ chờ hắn đến nơi đó mà thị sát.
Đây cũng khó trách, Lý Khánh An dẫu sao không phải Tiết độ sứ, cũng không phải Đô hộ Bắc Đình, hắn chỉ là phó chức, mặt khác, Bắc Đình đô đốc lại cùng cấp với Tây Châu đô đốc, nên Triệu Diên Ngọc có Khánh Vương làm chỗ dựa, phen này ra chiêu này cho hắn bẽ mặt, tục ngữ có nói: “Cường long khó địch rắn thổ địa”, triều đình đã giao hắn trọng quyền quý giá nhất, nhưng làm sao có thể năm được thực quyền này, còn phải xem thủ đoạn của hắn.
Lý Khánh An cũng không vội, hắn giao việc tổ chức đi săn cho Dương Phụng Xa, trước đó việc săn bắn đều do hắn lo tất, hắn rất quen việc này, Lý Khánh An mỗi ngày đều phải xử lý đống quân vụ quân Hàn Hải trong nha môn Tiết độ sứ.
Quân Hàn Hải tổng cộng có một vạn hai ngàn người, Binh mã sứ là nguyên Đô đốc Đình Châu Lư Phụng Viễn đã bị điều đi, giờ tạm thời do phó sứ Vương Nghĩa Sơ soái lĩnh. Lý Khánh An sau khi đến nhậm chức, đương nhiên sẽ là Binh mã sứ tiếp nhiệm, công việc đầu tiên hắn làm là cải cách quân chết quân Hàn Hải, lấy lý do dân số quân Hàn Hải quá đông, chia quân Hàn Hải ra làm ba, gọi là Hàn Hải một, Hàn Hải hai, và Hàn Hải ba, phân biệt do Đoạn Tú Thực và Lệ Phi Thủ Du, Lệ Phi Nguyên Lễ làm Binh mã sứ tam quân, còn Binh mã phó sứ Vương Nghĩa Sơ trước đây được thăng chức làm Bắc Đình hành quân tư mã, Lý Khánh An lại còn thượng tấu tiến cử thêm chức Hàn tán đại phu ngũ phẩm cho hắn. Và như thế bèn để hắn sang làm quan quân văn chức.
Vương Xương Linh làm Lục sự tham quân kiêm Đồn điền sứ của Bắc Đình, Sầm Sâm là Phán quan, Bùi Dự là Trưởng thư ký, như thế, trước khi bắt đầu kỳ săn mùa xuân, Lý Khánh An đã nắm hết quyền lực Bắc Đình nắm trong tay mình.
Xế chiều ngày này, Lý Khánh An kết thúc quân vụ từ Bắc Đình thành về phủ trạch, vừa ra khỏi cửa thành, đã có một quân sĩ lên bẩm báo: “Tướng quân, có một thường dân Trường An đến, nói là bạn xưa của người, có việc gấp cần tìm.”