to.
Trong doanh lớn, vài tên lính Xích hầu đã dẫn hai tên thủ lĩnh người Sa Đà đến, đi đầu là một người đàn ông trung niên, mặt rộng chữ điền, thân hình trung bình, thể trạng cười tráng, lão đi lên thi lễ với Khánh An: “Sa Đà Diệp Hộ cốt Xuất chi, tham kiến Sứ quân.”
Khánh An vội dìu lão dậy: “Diệp Hộ tướng quân không cần đa lễ, mời ngồi!”
Hắn mời Diệp Hộ ngồi, lại lệnh thân binh dâng trà. Xong mới cười nói: “Diệp Hộ sao đến Ngọc Môn Quan?”
Diệp Hô hơi cúi mình cười nói: “Ta lần này đến Ngọc Môn Quan là một tìm một do trường người Khương để bàn việc du mục, năm trước vì tông tích của năm mươi con dê, kết quả đã biến thành thảm kịch, năm nay để phòng bi kịch tai diễn, ta liền đến tìm người do trường người Khương để bàn, không ngờ lại nghe tin Tướng quân đang ở Ngọc Môn Quan, liền đến bái kiến.”
“Cùng là trùng hợp, bọn ta tạm thời dừng lại Ngọc Môn Quan, rất có thể ngày mai ngày mốt là sẽ đi Bắc Đình, cũng đương nghĩ tìm người nói chuyện, không biết ở Bắc Đình có bao nhiêu người Sa Đà, đều phân bố vùng nào?”
“Khởi bẩm Sứ quân, người sa đà chủ yếu phân bổ tại phía nam kim sơn. Phía bắc núi Chiết Đà Mạn, tổng cộng có một vạn hai ngàn túp lều, sáu vạn người hơn. Sống bằng nghề du mục.”
Lý Khánh An cầm ly trà lên hớp một ngụm, hỏi nhạt: “Có tin đồn rằng, người Sa Đà cướp bóc thương lữ qua lại, có việc này không?”
Diệp Hộ ngạc nhiên. “Sứ quân thế này là nghe ai nói, người Sa Đà ta từng cướp của thương lữ? Bọn ta đi đến từ Bắc Đình mấy mươi năm nay, chưa từng cướp bóc, ngược lại, còn thường gặp thương lữ hoạn nạn, đều ra tay cứu giúp. Sứ quân đừng nghe kẻ khác nói sàm.”
Khánh An cười mỉm nói: “Ta nghĩ cũng phải, An đại soái e rằng đã hiểu nhầm người Sa Đà, lúc ở Lương Châu, hắn cứ nhắc nhở ta. Phải cẩn thận người Sa Đà đóng giả làm mã tặc công kích đội ngũ của ta, ta nghĩ đây sao có thể được. Sa Đà lại tập kích quân đội của Bắc Đình Tiết độ sứ, bọn họ không muốn ở Bắc Đình nữa ư?”
Vẻ mặt Diệp Hộ chớp nhoáng hiện sắc phẫn nộ, hắn đứng dậy thi lễ với Lý Khánh An: “Đa tạ Sứ quân tin tưởng. An Tư Thuận đã từng mấy lần cầu người Sa Đà đến Hà Tây, ta vẫn không nhận lời, không ngờ hắn lại cố ý khiêu khích dèm pha như thế, muốn để tướng quân ép bọn ta di dời về hướng Đông, đúng là hành vi của kẻ tiểu nhân.”
Lão chưa nói xong, ngoài cửa lều bỗng dưng có một tràn bước chân vội vã, một thân binh đang chạy vội đến bẩm báo: “Tướng quân, có quân tình khẩn!”
“Nói!”
Tên thân binh nhìn Diệp Hộ xong, đành nói: “Có Xích hầu thám thính được, có khoảng ba ngàn đến bốn ngàn kỵ binh từ Đại Trạch Hồ từ hướng đông Ngọc Môn Quan đang tiến đến, cách Ngọc Môn Quan không đến năm mươi dặm.”
Chương 168: Dụ Rắn Rời Hang (2) 0O0
Dưới ánh trăng, một đội kỵ binh hơn ba ngàn do người Khương Hồ tổ thành tựa hồ như một lũ lang sói, đang ồ ạt xông đến Ngọc Môn Quan, đây là một bộ lạc Khương Hồ vùng Cam Châu và Túc Châu, cũng là nhóm người Khương Hồ quan trọng khu vực hành lang Hà Tây, Kiện Khang quân Cam Châu và Ngọc Môn quân Túc Châu đều có con cháu của bộ lạc này tòng quân, thủ lĩnh bộ lạc quan hệ khá tốt với An Tư Thuận, lần này An Tư Thuận đã nhờ bọn chúng rút ba ngàn người tố thành kỵ binh đến tập kích đoàn người Lý Khánh An, địa điểm ở Ngọc Môn quan nơi mà Sa Đà, Khương Hồ và người Hồi Khất thường xuất hiện.
Người thủ lĩnh chỉ huy nhóm người này là Kim Đức, thân cao bày thước, lưng hổ eo hùm, vạm vỡ cường tráng, nhưng hắn lại là một tướng người Hán, là một tên tướng dũng mãnh dưới chướng An Tư Thuận, rất được trọng dụng, không chỉ sức khỏe thiện chiến, còn rất xảo huyệt tựa sói, hắn biết rõ đại đội Lý Khánh An trốn ở Ngọc Môn Quan khó mà tập kích, nên vẫn nhịn, đợi hắn lên đường mới phát động tập kích giữa đường, Lý Khánh An ở lại trong thành mười ngày, hắn nhịn mười ngày, mãi đễ khi phía eo núi Tinh Tinh nghe được tin viện binh Bắc Đình xuất hiện, hắn mới ra quyết định cuối cùng tập kích Ngọc Môn Quan vào đêm.
Chỉ tiếc là gặp Lý Khánh An xuất thân Xích hầu doanh, bọn chúng vừa vào khu vực cách Ngọc Môn Quan trăm dặm liền bị Xích hầu quân Bắc Đình phát hiện ra.
Canh hai, xung quanh tĩnh lặng như tờ, kỵ binh Khương Hồ cách Ngọc Môn Quan không đến hai mươi dặm, trên sa mạc trống trãi, dưới ánh trăng trắng xóa, từ xa xa đã nhìn thấy bờ tường đen huyền của Ngọc Môn Quan về đêm.
Trước cửa thành. Kim Đức phân vân, một sự nhạy bén của người lính khiến hắn cảm thấy rất có khả năng quân Bắc Đình đã chuẩn bị đợi sẵn, nhưng mệnh lệnh của An Tư Thuận hắn không thể làm trái, một lát sau, hắn rút đao ra chỉ lên thành trì Ngọc Môn Quan hô to: “Giết!”
Ngay trong khu rừng Hồ dương hai dặm ngoài đó, ba ngươi kỵ binh Sa Đà tinh nhuệ đang đợi lệnh. Sa Đà là một nhánh người của Đột Khuyết, xuất thân từ bộ lạc Xứ Nguyệt của Đột Khuyết, năm thứ hai Vũ Chu Trường An. do trường Sa Đà Kim Sơn vì có công chinh chiến Thiết Lặc độ phong làm Kim Mãn đô đốc. Sau vì do Thổ Phồn ép, con trai của Kim Sơn Phủ Quốc chuyển dời cả tộc về Bắc Đình, phân bố lẻ tẻ ở phía bắc núi Triết La Thang, và Kim Sơn trở về nam. Sau khi phủ Quốc mất, con trai Cốt Đột Chi trở thành Diệp hộ của Sa Đà, phụ thuộc vào Bắc Đình, sống dưới trướng của Đại Đường và Hồi Khất.
Con trai Sa Đà vốn thiện chiến dũng mãnh, là một đội kỵ binh tinh nhuệ, được xếp vào hàng ngũ song hùng với với đội quân Sóc Phương của A Bố Tư, nhưng do dân số Sa Đà ít, kinh tế lạc hậu, nên khó mà phát triển mạnh, mãi đến thời kỳ cuối đời Đường đại loạn, người Sa Đà đã di dời đến Hà Đông mới phất lên lại, đến thời phụ tử Lý Khắc Dụng kiến lập hậu Đường, Lưu Tri Viễn kiến lập hậu Hán, đường Kính Đường kiến hậu Tần, người Sa Đà hoành hành truyên nguyên, mang lại nhiều thám hoa cho tộc người Hán.
Nhưng sự manh nha của dã tâm vẫn cần điều kiện ngoài ủng hộ, lúc này thủ lĩnh Cột Đố chỉ làm mông cũng không dám nghĩ đến con cháu mình sẽ là bá chủ trung nguyên, lúc này đương lúc thịnh Đường, cuộc sống của người Sa Đà dưới sự ảnh hưởng mạnh của Đại Đường, bán mạng phục vụ Đại Đường chỉ mong đổi lấy chút đất đai, đây là lựa chọn duy nhất của người Sa Đà lúc bấy giờ.
Cốt Đột Chi ánh mắt sắc bén, hắn dõi theo bóng người Khương Hồ đang phóng đến từ xa, trong mắt đầy phẫn nộ, người Khương Hồ ai ai khoát áo choàng trắng, hiển nhiên là đang giả mạo Sa Đà, hắn quay đầu nhỏ giọng hạ lệnh: “Cởi áo khoát, chuẩn bị nghênh chiến!”
Quân Sa Đà đồng loạt bỏ áo choàng, rút trường đao, mắt đầy khát vọng giết chóc, bọn họ đang nôn nao chờ cho bầy sói này một đòn chí mạng cuối cùng.
Ba ngàn quân Khương Hồ ào ào tràn đến, tiếng vó ngựa, tiếng gào rít, tiếng huơ đao, tiếng cung tiễn.. vang lên tứ phía, sát khí đằng đằng. Dưới ánh trăng mờ ảo, bọn họ thân khoát áo khoát màu trắng đặc trưng của người Sa Đà. Phảng phất như đàn sói đói đang bất chấp ập đến mân mê tòa thành Ngọc Môn Quan này, trên thành lâu cũng phát hiện dị thường, quân gác hét toáng lên, tiếng trống tiếng chuông báo hiệu khắp nơi, binh sĩ trực đêm chạy xuôi chạy ngược, hoảng loạn bất an, chỉ một chốc, đại đội Khương Hồ đã lũ lượt kéo đến, từng làn tên dày đặc vèo vèo phóng đến như mưa, tí tách phóng lên tường thành, cộng với một hai tiếng thét thảm thiết, có người đã trúng tiễn. Sau làn tiễn dày đặc, kỵ binh Khương Hồ dạt ra hai bên, vài chục tên kỵ binh cùng lê một khúc cự mộc đến gần cửa thành, lúc này một tràn chuông vang lên trên thành, trên thành bỗng xuất hiện đâu đâu toàn binh sĩ, bọn họ bắt đầu kéo cung, tiễn xuống cũng như mưa ập thẳng đến bọn kỵ binh đang chờ phá cửa thành. Kỵ binh Khương Hồ không kịp trở tay, dưới thành bỗng chốc tiếng thét thảm thiết liền liền, hai trăm mấy quân Khương Hồ trúng tiễn rớt xuống ngựa.
Sự tấn công đột ngột khiến quân Khương Hồ một chốc đại loạn, bọn họ lũ lượt quay đầu bỏ chạy tránh tiễn. Chỉ chốc lát đoàn người tạm tan rã, chỉ nghe trong đội Khương Hồ có một người nói tiếng Hán mắng nhiếc: “Đồ Khốn!” Tiếp đến là tiếng Khương: “Duy trì trật tự đội, không được loạn, dùng đôn bài phòng ngự cung tiễn!”
Nhưng tiếng hét của hắn đã bị tiếng la hỗn độn của quân Khương át hết, không ai nghe lệnh hắn, đội kỵ binh đã rút ra ngoài năm trăm bước. Dưới thành bỗng chốc yên hơi lặng tiếng lại, chỉ có những tên trúng tiễn chưa chết đang nằm giẫy giụa rên rỉ dưới đất.
Trên thành, Nghiêm Trang đang ngồi trên một chiếc kiệu chiếu, bốn binh sĩ khiêng hắn ra, hắn cứ ung dung ngồi phe phẩy chiếc quạt lông vũ của mình, trông có phần nào giống Khổng Minh, hắn chỉ vào người thọ thương dưới thành nhìn Khánh An cười nói: “Tướng quân, đã nhìn thấy chưa, trí giả suy nghĩ ngàn lần tất có một lần sơ xuất. An Tư Thuận trăm tính ngàn toán, cuối cùng lại không ngờ biến thành công thành, bây giờ bọn thương binh này đã lật tẩy trò bịp bợm giả làm người Sa Đà của hắn.”
Khánh An chau mày, vết thẹo trên trán của hắn trông cứ như một hình chữ “S”, dù Khương Hồ công thành kinh nghiệm không đủ, nhưng sự hung hăng của chúng vẫn ngoài dự liệu của hắn, chiến năng của bọn kỵ binh này cực mạnh, liệu quân đội có hắn có đối chọi nổi không?
Một tràn trống vang lên, một ngàn kỵ binh đã trở thành bộ binh đang chạy ùn đến như ong vỡ tổ, trên tay mỗi người giơ cao tấm khiêng bài, giữa họ lại có chen lẫn năm sáu khúc cự mộc. Sau lưng họ, hai ngàn kỵ binh đang chen nhau xong lên, như không chờ nổi để xông vào thành trì. Quân Bắc Đình trên thành bất thình lình dừng phóng tiễn, hơn nữa bọn họ hình như còn phạm một sai lầm cực lớn, cầu treo của cửa thành lại có thể không kéo lên, tạo thuận lợi cho quân Khương Hồ vào công thành hơn.
Thiếu úy Tửu Tam Nguy Ngọc Môn Quan sốt ruột, hắn nhảy cũng lên thét ầm lên trên thành: “Cửa thành Ngọc Môn Quan lâu năm không tu, làm sao có thể chịu được như thế, hãy mau kéo cầu treo lên thôi!”
Nhưng không ai thèm nghe hắn cả, cửa thành và cầu treo đều bị thủ hạ của vị khách Lý Khánh An này không chế. Khánh An phảng phất một bức tượng điêu khắc, trên mặt là nụ cười lạnh toanh, nếu An Tư Thuận không chịu buông tha, vậy thì đừng trách hắn vô tình.
“Chuẩn bị bọc thuốc nổ!” Hắn vừa hạ lệnh, mười mấy tên thân binh lập tức thành thạo rút ra năm bọc hỏa dược, bọn họ sau trận chiến máu lửa bên Xích Lĩnh, đã hiểu sâu về thuốc nổ hơn, và cũng thuần thục sử dụng nó hơn, chỉ một lúc, năm bọc hỏa dược đã được đặt lên máy ném đá, chờ đợi chỉ lệnh cuối cùng.
“Đùng!” lại một tiếng nổ vang trời, thành môn một lần nữa chấn động, cửa thành nhiều năm không sửa bị tông cho kêu kèn kẹt. Ở giữa là một kẽ hở nhỏ. Dù trong lòng khinh hoàng, như cửa thành sắp bị công thành này khiến lòng Kim Đức vui mừng khôn xiết, quên sạch bao nỗi tự lự, hắn rút đao hô to: “Kỵ binh đi lên!”Đội kỵ binh lập tức ồ ạt tràn lên.
Quân Khường Hồi đại hỉ xông đến cửa thành, kỵ binh anh dũng giơ đao gào thét, các mũi tên sắc bén khó mà xuyên thủng được ngực chúng, trăm người ở phía trước đã hồn bay phách lạc, lập tức quay đầu bỏ chạy, một tiếng trống vang, trong thành ngàn tiễn cùng phát ào ạt phóng về phía cửa thành, trước cửa thành, xác chết chất đầy đồi, người chạy trước, kẻ chạy sau tán loạn.
Kỵ binh chỉ còn cách cửa thành không đến trăm bước, lúc này trên thành bỗng vang tiếng thét tha thiết, tất cả mọi người cùng nhìn lên, chỉ thấy lão pháp sự đang run rẩy chỉ vào bầu trời hô to: “Lôi thần! Lôi thần đã đến!” Tiếng lão là tiếng Khương Hồ, trong tích tắc, những nỗi hoang mang trong lòng lập tức nhân đôi, bầu trời đen ngòm khuất bóng trăng, xung quanh chỉ một nỗi u ám bao trùm.
Bỗng nhiên, từ trên thành năm bọc vải màu xám được vứt xuống, nổ tung ngay trên đầu bọn Khương Hồ, tiếng nổ vang trời dưới chân thành, gần trăm người tan xương nát thịt, khí lưu mạnh mẽ ấy đã hất bay mọi thứ, khói lửa hừng hực tạo thành từng đám mây khói màu đen. Trong tiếng nổ vang, chiến mã Khương Hồ rối bời, thét rú lên, hoảng loạn tung chạy tứ tán, bọn lính Khương Hồ cũng gào rú lên: “Lôi thần đến rồi!” Binh sĩ lập tức quay đầu bỏ chạy, ai ai đều sợ vỡ mật.
Công dụng đánh đòn tâm lý từ năm bọc hỏa dược đã vượt xa bản thân vụ nổ, lại thêm sự phối hợp với phù thủy, khiến người Khương mê tín kia lại càng sợ hãi, ai ai đều nghĩ Lôi thần đã giáng lâm, trong lòng chỉ có mỗi ý nghĩ: “Chạy!”
Quân Khương Hồ bại như điếu đổ, kỵ binh bỏ chạy phía trước, bộ binh binh ở đằng sau, một đội quân Đường từ cửa thành xông ra, Nam Tề Vân vung vẫy thiết thương, khí thế tựa mãnh hổ, lại cuồng vũ tựa phi vũ, thương thương máu tươi đổ, chỉ một chốc đã đánh đổ máy chạy Hồ Khương quân đến khiêu khiếu, linh Thần Lôi Vạn Xuân bên cạnh hắn, tay cầm hai chiếc chùy thép nữa tạ, búa búa trúng địch, mạnh mẽ vô song, nơi này hắn đi qua. Khương Hồ nơi đó không đầu nát, óc bay, chết rất ư thê thảm.
“Không tồi! Không hổ danh Bắc Đình nhị hổ của ta!”
Khánh An mỉm cười nói, hắn giật qua liệt hỏa cung bên cạnh đặt lên huyền cung, kết căng, buông tay, một cây hỏa tiễn bay phóc lên không, hỏa diệm chói rực của nó trong bầu trời đêm trong mới rõ ràng làm sao, tiếng Tây Bắc bỗng vang lên tiếng vó ngựa, đội quân Sa Đà thật sự đã đến, phủ trời che đất, thế như núi lỡ sóng gào, Diệp Hộ tướng quân càng phải lo lấy ấn tượng tốt nơi Sứ quân tân nhiệm Bắc Đình này, dẫu sao nó liên quan đến sự sống còn của người Sa Đà bọn họ, hắn vung đao thét lên: “Giết! Hãy giết sạch bọn Khương Hồ giả Sa Đà này!”
Ngọc Môn Quan trong một chốc toàn tiếng thu binh, quân lệnh Bắc Đình vừa dứt, lập tức thu binh về thành, một người không sót, cầu kéo được kéo lên cao, cửa thành ngang nhiên đóng lại. Xung quanh lại trở về sự tĩnh lặng như thời trước khi xảy ra chiến sự, tiếng thảm sát ngoài thành vừa mới bắt đầu, trong trận chiến giành đất du mục năm trước thất lợi, một trăm dân du mục bị giết, bọn người Sa Đà đã hận thấu xương người Khương Hồ, lúc này, thù cũ hận mới đều được bộc phát trong từng nhát đao của họ, ba ngàn quân Sa Đà được chia làm ba đội, ba đội như ba lưỡi đao xông vào quân Khương Hồ, bỗng chốc cổ, đầu người rơi rào rào, thi thể tung tóe, máu chảy thành sông, trong trận chiến này ba ngàn Khương Hồ bị đánh cho tán tác, cơ hồ bị diệt sạch, chỉ có chưa đến trăm kỵ binh đào tẩu thành công, cả chủ tướng Kim Đức cũng bị loạn đao của Sa Đà đánh cho tan xác, đầu thân mỗi thứ một nơi.
Khánh An đứng trên đỉnh thành chăm chú nhìn người Sa Đà tác chiến, sự anh dũng và tinh tế của người Sa Đa khiến hắn nheo mắt, mới đến Bắc Đình hắn đã tìm được một thanh đao sắc.