“Cánh cửa Sinh mệnh đã khép lại, Cánh cửa Địa ngục sẽ mở ra, Cánh cửa Địa ngục mở ra, các sứ giả dũng cảm phải lên đường. Họ băng qua Minh hà, vượt qua hoang mạc, lội qua đầm lầy có vô số độc trùng, trải qua tất cả gian nan khổ nạn, đến được Thánh điện trên trời, tiên cảnh chốn nhân gian… Hương Ba La!” Tiếng ca thật quen thuộc, như tự trời cao vẳng xuống, lại như vang vang hồi vọng giữa sơn cốc rộng mênh mông, giọng nam trung cổ phác mà hồn hậu đang cất lên, hình ảnh Đa Cát với vẻ mặt không sợ trời không sợ đất lại thấp thoáng hiện lên trong óc Trác Mộc Cường Ba. Viên hồng bảo thạch đang đặt ở chính giữa căn phòng, phát ra thứ ánh sáng đỏ nhàn nhạt hắt lên bức tường, chiếu ra mật quang bảo giám. Chuyện Đa Cát tận tay trao viên hồng bảo thạch ấy cho gã ngỡ như chỉ vừa mới hôm qua.
“Cánh cửa Địa ngục,” Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt, thậm chí còn cảm thấy hơi chóng mặt, bọn gã đã từng đến gần chân tướng sự thật gần đến thế, để rồi cuối cùng lại vòng một vòng lớn, phải chăng đây là trời cao đã sắp đặt? Đến tận cùng, gã vẫn không thể thoát ra khỏi cái vòng luân hồi ấy. Bạn đang đọc truyện tại Truyện FULL – www.Truyện FULL
“Cánh cửa Địa ngục! Là Cánh cửa Địa ngục mà Đa Cát nhắc đến ấy à?” Nhạc Dương cũng sực nhớ ra, lúc đó anh còn chế giễu Đa Cát, chẳng lẽ cứ đi xuôi dòng Nhã Lỗ Tạng Bố là được à, thật không ngờ, thật không ngờ lại đúng là như thế!
Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, chính là Cánh cửa Địa ngục đối lập với Cánh cửa Sinh mệnh ấy. Cường Ba, cậu vẫn chưa trở lại thôn Công Bố, đúng không?”
“Vâng.” Trác Mộc Cường Ba cúi đầu đáp. Sau khi Đa Cát qua đời, đã ủy thác gã mang viên Thiên châu và mảnh ngọc giao cho Ca Ca, không ngờ mấy lần định đến đó đều bị những chuyện đột xuất làm chậm trễ, cuối cùng không thể lên đường. Giờ nghĩ lại, gã không khỏi cảm thấy áy náy trong lòng.
Giáo sư Phương Tân nói: “Được rồi, chúng ta đã lần ra được đầu mối này, cậu cũng nên chuẩn bị trở lại thôn Công Bố đi, chúng tôi sẽ tiếp tục tìm thêm các đầu mối trên bản đồ và bức mật quang bảo giám này, còn các cậu đi sâu tìm hiểu thêm chút nữa, khi nào trở về sẽ xác định kế hoạch chi tiết. Tôi nghĩ, lần này nhất định là sẽ có phát hiện mới đấy.”
Trác Mộc Cường Ba bước đến trước xe lăn của giáo sư Phương Tân, quỳ một chân xuống như kỵ sĩ châu u thời Trung cổ, ngước lên nhìn ông chăm chú: “Nhất định là như vậy.”
Thời gian có hạn, bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba chuẩn bị một số công cụ để hành động dưới nước như thuyền bơm hơi, đồ lặn… rồi trở lại thôn Công Bố. Vì trực thăng quá kềnh càng, mà việc mượn hay điều động cũng rất nhiều thủ tục lằng nhằng, hơn nữa mục tiêu quá rõ ràng, để đề phòng vạn nhất, họ quyết định đi đường bộ đến đó. Thôn Công Bố vẫn chưa thông với đường quốc lộ, mà nhóm phải đi bộ đường dài, nên để Đường Mẫn ở lại giúp giáo sư Phương Tân sắp xếp các đầu mối vừa mới phát hiện được.
Dọc đường, chủ đề câu chuyện của mấy người bọn họ chỉ xoay quanh Shangri- la. Pháp sư Á La nói: “Các cậu có biết, tại sao trong khi đa phần mọi người cho rằng Shangri- la là vùng đất lý tưởng chỉ có trong truyền thuyết, vẫn có rất nhiều người dân tộc Tạng tin chắc rằng nó thực sự tồn tại hay không?”
Trương Lập đưa mắt nhìn Nhạc Dương, nói: “Đâu có, chúng tôi đều tin là thật cả mà.”
“Thật sao?” Pháp sư Á La cười điềm đạm: “Trước khi nhìn thấy tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, các cậu cũng nghĩ như vậy à?”
Trương Lập ngại ngùng gãi gãi đầu. Trác Mộc Cường Ba nói: “Đúng vậy, trước đây, tôi vẫn luôn cho rằng nó chỉ là vùng đất hư ảo, lý tưởng trong truyền thuyết, về bản chất không khác gì vườn Địa đàng của Thiên Chúa giáo, Thái Xung ảo cảnh của Đạo giáo, hay Cực lạc thế giới của Phật giáo cả. Hiện giờ, tôi hy vọng là mình đã sai.”
Pháp sư Á La nói: “Cường Ba thiếu gia, mọi người đã tra cứu tìm hiểu khá nhiều tài liệu về Shangri- la, có biết Shangri- la khởi nguồn từ đâu không?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Theo những gì tôi tìm hiểu và kiểm chứng, thư tịch đầu tiên nhắc đến Shangri- la, là Đại Thiên Luân kinh, các truyền thuyết về Shangri- la sau này, đại để cũng đều từ bộ kinh thư này mà ra cả.”
Trương Lập ngạc nhiên thốt: “Đại Thiên Luân kinh? Hình như tôi nghe thấy tên này ở đâu rồi ấy nhỉ?”
Pháp sư Á La gật đầu: “Đúng thế, Đại Thiên Luân kinh là pháp điển tối cao của Mật giáo, được vị đại tôn sư thời Hậu Hoằng kỳ, A Để Hiệp đại sư mang đến. Theo các ghi chép trong cổ tịch, A Để Hiệp đại sư khai đàn giảng kinh, đã nói rõ bộ kinh này chứa đựng toàn bộ đại thành tựu của Mật giáo, tinh thông kinh này, ắt sẽ lý giải được tất thảy mọi kinh văn khác, ngộ ra tất cả pháp môn của Mật truyền Phật giáo. Tư tưởng hạch tâm của tất cả Tạng truyền Phật giáo thời Hậu Hoằng kỳ, bất kể là phái biệt, giáo tông nào cũng đều diễn sinh từ bộ kinh thư này cả. Bộ kinh thư này miêu tả một vũ trụ và thế giới khác hẳn với Phật giáo Hiển tông. Shangri- la có vị trí rất quan trọng trong bộ Đại Thiên Luân kinh này.”
Trác Mộc Cường Ba tiếp lời: “Không sai, chính vì trong đó miêu tả một vùng thánh địa lý tưởng của Phật giáo, nên những người không phải là tín đồ như chúng ta tự nhiên sẽ cho rằng chỉ là truyền thuyết rồi.”
Pháp sư Á La nói: “Nhưng cũng đừng quên rằng, trước khi khai đàn giảng Đại Thiên Luân kinh, A Để Hiệp đại sư từng nói rất rõ ràng rằng, bộ kinh thư này không phải do các học giả Ấn Độ soạn ra, mà truyền đi từ Tây Tạng, về sau đã thất truyền ở Tây Tạng, nên ông ấy mới mang cuốn kỳ thư khoáng thế này trở lại. Rất ít người coi trọng câu nói đó, thậm chí rất nhiều vị học giả cũng không hoàn toàn để tâm tìm hiểu. Những điều A Để Hiệp đại sư nói đều là sự thật, và trước khi bộ kinh thư này xuất hiện, còn tồn tại một cái tên khác, chính là tiền thân của Shangri- la, Nguy Ma Long Nhân!”
“Tiền thân của Shangri- la?” Trương Lập và Nhạc Dương đồng thanh kêu lên kinh ngạc. Shangri- la họ có nghe nói đến rồi, nhưng tiền thân hậu thân gì thì chưa bao giờ nghe ai nhắc tới cả.
Pháp sư Á La nói: “Các cậu nghe thử xem Nguy Ma Long Nhân được miêu tả thế nào rồi hãy kết luận. Nguy Ma Long Nhân là thánh địa của Bản giáo Tây Tạng, là tiếng Tượng Hùng, dịch nghĩa ra đại khái là vùng đất niết bàn, xung quanh có các đỉnh núi tuyết tựa như tám cánh hoa sen bao bọc, có thánh thú bảo vệ bốn phương canh giữ. Từ đây có bốn dòng sông chảy đi khắp nơi trên thế giới. Không một ai có thể vượt qua núi tuyết để đến được nơi ấy, lối ra vào duy nhất chính là một đường hầm tối tăm không thấy ánh mặt trời, vươn tay ra không nhìn thấy năm ngón. Tân Nhiêu, tổ sư của Bản giáo chính là được sinh ra ở vùng đất Nguy Ma Long Nhân đó. Ông ta đi ra từ đường hầm ấy, điểm hóa thế nhân. Vì vậy, vàothời thượng cổ, tất cả các tín đồ Bản giáo đều tin Nguy Ma Long Nhân thực sự tồn tại, giống như ngày nay chúng ta tin rằng Hoàng Đế, Viêm Đế, Đại Vũ thực sự tồn tại vậy. Lẽ ra Tượng Hùng có thể có những ghi chép miêu tả tường tận hơn về Nguy Ma Long Nhân, chỉ tiếc là trong lịch sử binh hỏa liên miên ấy, tất cả sử liệu của quốc gia bị diệt vong này cũng đều tan thành tro bụi cả rồi.”
Nhạc Dương nói: “Nghe pháp sư nói vậy thì cũng đúng là giống thật.”
Trương Lập chợt hỏi: “Nhưng mà, nếu A Để Hiệp đại sư không nói thật thì sao?”
Pháp sư Á La nói: “Ừm, về điểm này không có gì để nghi ngờ, vì bản thân Đại Thiên Luân kinh đã nói rất rõ ràng rồi. Bộ kinh thư này chính là những điểm tâm đắc mà vị vương của Shangri- la ghi chép lại sau khi gặp và cùng thảo luận về thế gian đại đạo với tổ sư Phật giáo Thích Ca Mâu Ni. Tương truyền bộ kinh thư này tổng cộng có một vạn hai nghìn bài tụng, mỗi bài giảng một chuyện, thâu tóm tất thảy vạn vật trên thế gian, lớn thì như đại đạo sinh tử của trời đất, nhỏ thì đến sự sinh trưởng của loài trùng loài kiến, cây cỏ nảy mầm… không gì là không có. Chỉ đáng tiếc, khi truyền đến A Để Hiệp đại sư chỉ còn lại một nghìn hai trăm bài tụng. Chỉ một nghìn hai trăm bài tụng này thôi đã bao gồm tất cả ý nghĩa thâm ảo của Mật giáo, dung hòa thiên địa, nhất quán cổ kim. Các vị Phật học đại sư sau này, đa phần đều chỉ nghiên cứu bộ kinh thư này. Thật khó mà tưởng tượng nổi, một pho điển tịch đầy trí tuệ như thế có thể do người nào, hay một nhóm người nào viết ra.”
Nhạc Dương gật gù: “Nói như vậy thì bộ Đại Thiên Luân kinh này chính là kết tinh trí tuệ của nhân dân Shangri- la, do người Shangri- la đưa đến Tây Tạng, rồi lại từ Tây Tạng truyền đến Ấn Độ, mà Shangri- la lại chính là Nguy Ma Long Nhân trong Bản giáo, mà Nguy Ma Long Nhân lại là một nơi thực sự tồn tại trong lịch sử, đồng thời bất cứ người nào muốn băng qua núi tuyết đều không thể đến được nơi đó. Muốn đến, phải thông qua đường hầm, cũng chính là cái rốn địa cầu, đường hầm bí mật được nhắc đến trong các truyền thuyết về Shangri- la, phải vậy không, pháp sư?”
Trương Lập tiếp lời: “Chính là thứ mà giờ chúng ta đang tìm kiếm.”
Pháp sư Á La lại nói: “Cường Ba thiếu gia, sao cậu không nói gì vậy? Lại nghĩ ra điều gì rồi à?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Pháp sư Á La, những gì ngài nói rất quan trọng, tôi có cảm giác như vừa nắm bắt được thứ gì đó rồi, có điều giờ vẫn chưa thể xâu chuỗi lại được, chắc là trở về sẽ phải tìm thêm tài liệu, nói không chừng sẽ có phát hiện mới nữa cũng nên. Pháp sư, ngài nói xem, tại sao Nguy Ma Long Nhân kia lại được gọi là vùng đất niết bàn?”
Pháp sư Á La đáp: “Là như vậy, tương truyền, từ thuở trời đất mới khai sinh, vùng đất Nguy Ma Long Nhân này đã tồn tại, và vĩnh viễn không bao giờ bị hủy diệt. Cứ cách một nghìn lẻ hai mươi tám năm, nó sẽ tái sinh trong ngọn lửa một lần, rửa sạch mọi thứ ở trong đó. Vào ngày hôm đó, cùng với sự tái sinh của thánh địa, tất cả những tín đồ Bản giáo kiền thành nhất sẽ được đến miền Cực lạc, đắc thành chính quả, bất sinh bất diệt, vì vậy mới gọi là vùng đất niết bàn.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Càng lúc tôi càng có niềm tin rằng, tất cả những gì chúng ta tiếp xúc, sẽ đưa chúng ta đến một Shangri- la chân thực, một vùng đất đã bị lãng quên trong góc khuất nào đó của lịch sử.”