Du Thanh Vi bị cử động của Lộ Vô Quy quấy rầy đến, hỏi: “Làm sao vậy?”
Lộ Vô Quy nói: “Đất hỏng rồi, đều là giun, rau trồng ngay cả rễ cũng đen.”
Du Thanh Vi liếc nhìn Lộ Vô Quy, nghi ngờ nhặt lấy cành cây đi đến mảnh đất trồng rau đậu Hà Lan vừa nãy Lộ Vô Quy ở, cô dùng cành cây lật lên rễ rau đậu Hà Lan, sau khi lật lên thổ nhưỡng màu đen thì xuất hiện một đống giun màu trắng lúc nha lúc nhúc, cả người cô phát tởm một trận, vội vội vàng vàng ném đi cành cây trong tay, lùi xa mấy bước.
Ưng âm dương nhìn thấy rau đậu Hà Lan bị Du Thanh Vi lật ra, nói với Lộ Vô Quy: “Nhị Nha, cháu dùng Vọng Khí thuật nhìn thử mảnh đất này và ngọn núi này.”
Lộ Vô Quy quay đầu liếc nhìn Ưng âm dương, trưng ra vẻ mặt cạn lời.
Ưng âm dương hỏi: “Làm sao vậy?”
Lộ Vô Quy nói: “Khí đen mịt mù rướm ra từ trong đất, cao gần nửa thước trôi lềnh bềnh ở trên mặt đất. Trên đỉnh núi khí đen hơi thấp một ít, càng đi xuống chân núi thì khí đen càng nặng, dưới chân núi khí đen bao lại cả nhà, như là màn sương đen.” Nàng hỏi Ưng âm dương: “Ông không nhìn thấy sao?”
Ưng âm dương không để ý tới ánh mắt kia của Lộ Vô Quy, nặng nề thở dài, nét mặt nghiêm nghị nhìn thôn Liễu Bình bên dưới ngọn núi.
Du Thanh Vi hỏi: “Tiểu muộn ngốc, khí đen trong thôn là có vài chỗ đậm có vài chỗ nhạt hay là đâu đâu cũng như nhau?”
Lộ Vô Quy tập trung nhìn, nói: “Khí đen xung quanh nhà Trang Phú Khánh nhạt rất nhiều, còn có… còn có… bên kia hình như là nhà Ưng âm dương, cũng rất nhạt, chỗ khác đều không khác mấy, chùa Bảo An khí đen nặng nhất.” Vừa nãy nàng ở chùa Bảo An còn không cảm thấy khí đen nặng, chẳng qua là cảm thấy trời có chút râm, bây giờ tập trung nhìn kỹ, tóc gáy cả người đều bị dựng lên.
Loại khí đen này cũng không phải là đen tuyền, nói một cách chính xác là màu tàn tro. Nơi khí đen bao phủ âm u đầy tử khí. Lúc này nhìn qua, cả thôn Liễu Bình còn giống thôn quỷ hơn cả cái thôn quỷ hồi trước họ đến.
Lộ Vô Quy cảm thấy bây giờ thôn Liễu Bình quỷ ở còn hợp hơn người ở.
Du Thanh Vi nặng nề thở dài, cất hai quyển sổ một mới một cũ vào trong ba lô, nói: “Đi thôi.”
Lộ Vô Quy đuổi theo gót Du Thanh Vi, nàng liếc trộm Ưng âm dương bị rớt lại ở đằng sau, dùng thanh âm cực thấp nói: “Du Thanh Vi, chị xem xong phong thủy rồi? Nhưng em còn không biết cái gì là thai Càn Khôn.”
Du Thanh Vi nói: “Trở về nhà rồi nói cho em biết.”
Lộ Vô Quy “Ồ” một tiếng, ngoan ngoãn theo sau Du Thanh Vi trở lại chùa Bảo An.
Trang Phú Khánh đang cầm một cái cưa điện cưa cái cây ngô đồng to đổ trong nhà thành từng khúc một.
Ngoài sân chồng chất cát sông, xi măng và gạch, người cậu làm thợ lát gạch của Trang Hiểu Sanh ở đây xây tường sân.
Đường Viễn cùng Tiết Nguyên Kiền gánh nước trở về, cọ rửa vết máu trên đất hết lần này đến lần khác.
Lộ Vô Quy mới vừa bước vào sân, liền nhìn thấy ba gã Quỷ Đạo vừa nãy không biết chạy đi nơi nào đã trở về.
Du Thanh Vi mời ba người họ và Ưng âm dương cùng đi vào trong phòng.
Sau khi nhóm người ngồi xuống bên bàn bát tiên ở trong phòng ngủ, Du Thanh Vi từ trong túi lấy ra hai quyển sổ một mới một cũ, lật ra bức tranh hôm nay cô mới vẽ và bức tranh trên quyển sổ cũ, chỉ vào bức tranh trên quyển sổ cũ, nói: “Đây là bản ghi chép năm đó cha tôi đến thôn Liễu Bình làm. Vẽ hai mươi lăm năm trước, qua việc đối chiếu giữa hai bức tranh… Rất dễ dàng nhìn ra xu thế phong thủy hiện tại của thôn Liễu Bình, tôi cảm thấy phong thủy của thôn Liễu Bình đang chuyển hóa theo hướng phong thủy tuyệt địa*.”
(*tuyệt địa nghĩa là vùng đất nguy hiểm.)
Quỷ Nhất cầm lấy quyển sổ của Du Kính Diệu lật xem.
Lộ Vô Quy liếc một cái, nhìn thấy trên quyển sổ ố vàng viết dày đặc thật nhiều chữ, còn có đủ loại tranh minh hoạ.
Lúc Quỷ Nhất xem, Quỷ Nhị, Quỷ Tam cũng tụ tập tới, ba người xem rất nhanh.
Chữ của Du Kính Diệu viết cuồng thảo* như là gà bới, Lộ Vô Quy xem rất vất vả, nàng mới xem xong một dòng, ba gã Quỷ Đạo đã sang trang. Nàng liếc xéo ba gã Quỷ Đạo một cái, phiền muộn nâng cằm chờ bọn hắn xem sổ. Nàng nhìn về phía Ưng âm dương, thấy nét mặt của Ưng âm dương vô cùng trầm trọng, từ ban nãy ở trong mảnh vườn rau Hà Lan nhổ ra giun liền trở thành bộ dáng này.
(*cuồng thảo là một kiểu chữ thảo, cách viết rất khó đọc, thường dùng cho tốc ký.)
Đại khái qua nửa giờ, ba gã Quỷ Đạo xem xong quyển sổ.
Du Thanh Vi nói: “Chuyện của chùa Bảo An, tôi biết cũng không rõ. Ông nội tôi từng nói với tôi một ít vụn vặt, cũng không nhiều. Trong quyển sổ của cha tôi lại ghi thêm một ít. Tôi từng tìm cha hỏi về chuyện của thôn Liễu Bình và tiểu muộn ngốc, lúc đó ông ấy cho tôi một quyển “Quan sơn vọng khí quyết”, sau khi tôi xem xong đầu óc mơ hồ, hôm mùng ba tết, tôi lại đi tìm ông ấy, ông ấy đưa cho tôi quyển sổ này. Khi còn bé cha tôi được một vị lão tiền bối ở chùa Bảo An nuôi nấng một quãng thời gian, vị lão tiền bối đó đã nói với ông ấy một ít bí mật của chùa Bảo An, tôi nghĩ, những gì cha tôi ghi trong quyển sổ này hẳn là có thể tin.” Cô tạm ngừng, nói: “Tiểu muộn ngốc, em còn nhớ gì khi em còn ở dưới cây liễu già không?”
Lộ Vô Quy quay đầu liếc nhìn Du Thanh Vi chậm chạp không nói cho nàng thai Càn Khôn là cái gì, “Ừ” một tiếng, gật đầu.
Du Thanh Vi đẩy quyển sổ của cô đến trước mặt Lộ Vô Quy, lại cho nàng một cây bút, nói: “Em vẽ ra tình hình khi em ở dưới cây liễu già đi.”
Lộ Vô Quy trong nháy mắt nghĩ là phải vẽ ra bộ dáng người lùn thấp lè tè của nàng, lắc đầu như trống bỏi.
Du Thanh Vi nói: “Rất quan trọng. Em không phải muốn biết cái gì là thai Càn Khôn sao? Vẽ ra tôi mới dễ nói cho em biết.”
Lộ Vô Quy suy nghĩ một chút, nói: “Được rồi.” Nàng cầm bút vẽ một vòng tròn nhỏ ở trên giấy, vẽ tiếp một mũi tên chỉ ra, viết “Ly Long Bát Quái Bàn”, rồi ở trên Ly Long Bát Quái Bàn đó viết một chữ “Đại (大)”, lại một mũi tên chỉ ra, viết “Tôi” ; chỗ cách xa xa trên đỉnh đầu viết một chữ “Nhất (一)”, mũi tên chú thích “Thước pháp Lượng Thiên”; dưới bàn chân vẽ một hình bầu dục, mũi tên chú thích “Mực Bàn Long”; bên phải một đồ án hình quạt, mũi tên chú thích “Quạt Thái Cực Càn Khôn “; bên trái một hình tròn, mũi tên chú thích “Bát Quái Kính”. Lại vẽ một vòng lớn bao lại tất cả mọi thứ, chú thích: La Bàn Định Tinh.
Du Thanh Vi nhìn “la bàn Định Tinh” chiếm cứ toàn bộ mặt giấy, hỏi: “La bàn Định Tinh lớn như vậy?”
Lộ Vô Quy nói: “Ánh sáng nó phát ra lớn như vậy, ở trên đỉnh đầu soi sáng ra một vùng sao trời.” Tạm ngừng, nói: “Định Tinh hứng trời, Bát Quái Bàn tiếp đất, Ly Long che chở hai bên, thước pháp Lượng Thiên, quạt Thái Cực Càn Khôn, mực Bàn Long, Bát Quái Kính định tứ phương.” Nàng nhìn cái chữ “Đại” đại diện cho nàng, vì sự nhanh trí của chính mình mà hơi đắc ý.
Du Thanh Vi lại hỏi: “Lúc đó em lớn chừng nào? Lúc nào bị đào ra?”
Lộ Vô Quy: “…” Nàng chỉ ngây ngốc mà nhìn Du Thanh Vi, quyết định không nói lời nào.
Ưng âm dương nhìn thấy Lộ Vô Quy không nói lời nào, cho rằng lúc nàng chết quá nhỏ không biết mình lớn bao nhiêu, khoa tay một hồi, nói: “Lớn có tý như vậy, thoạt nhìn như là đứa trẻ hơn một tuổi.”
Lộ Vô Quy: “…”
Ưng âm dương lại nhìn Lộ Vô Quy, nói tiếp: “Dưới lòng đất ở chùa Bảo An chính là không hề rỗng. Dưới cây liễu già quả thật có cái hang, nhưng cũng không lớn, ước chừng chỉ hơn một thước một tẹo, như là hang rắn mà con giao long kia ra vào. Sau khi đào lên cả gốc rễ của cây liễu già, đứa bé đó đột nhiên xuất hiện ở đáy hố. Xuất hiện quá đột nhiên, lại ngay tại chỗ hóa thành dòng máu, dọa sợ không ít người, có điều người khi đó là không sợ trời không sợ đất, vì thế…”
Lộ Vô Quy: “…” Nàng hơi sửng sốt, mới nói: “Ưng âm dương, lời ông nói không giống với những gì cháu nhớ.”